Rất nhiều đạo hữu đã hỏi thầy về ý nghĩa của quy y, vì vậy nên thầy cho thiết kế lại điệp quy y mới này. Truyền thống Drikung Kagyu khởi sinh là nhờ Sơ Tổ Jigten Sumgon, Đấng Giác Ngộ với nhiều phẩm tánh vô song của thân, khẩu, ý. Thầy xin chia sẻ đôi điều về những phẩm tánh này theo cách hiểu của thầy.
Tôn ảnh Đức Jigten Sumgon trên điệp quy y thể hiện những phẩm tính về thân giác ngộ của Ngài. Đây là bức ảnh chụp tôn tượng “Dấu Răng”, một trong những pháp bảo thiêng liêng nhất đang được bảo quản tại tu viện Gar vì tôn tượng này ngập tràn gia lực.
Trong quá khứ, Đức Gardampa Chodingpa du hành đến Nepal và đã cho đúc rất nhiều tượng của Tổ Jigten Sumgon. Ngài đã làm hai kích cỡ: những bức lớn có kích thước khoảng 15cm, và những bức khác có kích thước rất nhỏ. Khi Đức Gar Chodingpa dâng những bức tượng này lên để thánh yểm, Ngài hỏi Sơ Tổ Jigten Sumgon, “Ngài xem, những bức tượng này có giống Ngài không?”
Sơ Tổ cầm một bức tượng lớn lên và quan sát. “Trông thật giống ta,” nói đoạn, Ngài cắn vào đầu của bức tượng và để lại một hàng dấu răng. Từ đó, những dấu răng cứ thế tự nhiên hoá hiện tại vị trí đầu của tất cả các bức tượng lớn. Những bức tượng lớn vì thế được mang danh hiệu “Vị Dấu Răng”.
Sơ Tổ lại cầm một bức tượng nhỏ lên và ngậm vào trong miệng. Sau đó, Ngài đưa lại bức tượng cho Gar Chodingpa và nói, “Giờ đây nó đã được thánh yểm rồi.” Vì vậy, những bức tượng nhỏ được gọi là “Vị Ngậm Trong Miệng”.
Tất cả những tôn tượng này đều vô cùng trân quý. Thầy đã nhìn thấy khoảng ba mươi đến bốn mươi tượng lớn này và tất cả các tôn tượng đều có dấu răng. Đây là những tôn tượng rất cũ và nhiều người có sở thích sưu tập chúng: nhiều vị đạo sư từ những truyền thống khác nhau ở khắp nơi trên Tây Tạng đã thỉnh những bức tượng Sơ Tổ Jigten Sumgon này. Thầy muốn giới thiệu đến mọi người câu chuyện này nên đã cho in hình của tôn tượng lớn lên Điệp Quy Y.
Trong Điệp Quy Y lại viết: “Con xin quy y nơi Tánh Giác Siêu Việt, là tinh tuý của Phật.” Đây chính là phẩm tánh của khẩu giác ngộ. Trong tác phẩm Chỉ Duy Một Ý Chỉ (Gongchig), Tổ Jigten Sumgon đã nói: “Các công hạnh của Phật là một sự hoạt dụng trải rộng khắp vạn pháp.”
Ai ai cũng đều có Phật tánh, không có bất kỳ chúng sinh nào lại không có phẩm tánh này của trí tuệ ở trong tâm. Nhờ có trí tuệ này mà chúng sinh mới đạt được hạnh phúc tạm thời và đến tột cùng là đạt thành giác ngộ. Ta nói rằng cảnh giới Phật quả là tuệ giác toàn thiện. Nói tóm lại, trí tuệ là gì? Chỉ cần chưa chứng ngộ được bản tâm, ta vẫn sẽ vô minh, và nhu thế tâm này được gọi là thức nhị nguyên. Nhưng khi đã chứng ngộ bản tâm, đây chính là tuệ giác tự nhận biết. Đây là lý do trên Điệp Quy Y nói rằng tánh giác là tinh tuý của Phật.
Câu kệ tiếp theo trên Điệp Quy Y là: “Con xin quy y Tâm Đại Bi, là tinh tuý của Pháp.” “Tám vạn bốn ngàn Pháp môn thảy đều quy về Bồ Đề Tâm.” Chư Phật ba thời đã dạy cho ta về con đường Bồ đề tâm tối hậu. Có hai loại Bồ đề tâm: tương đối và tuyệt đối. Để chứng ngộ Bồ đề tâm tuyệt đối, chúng ta phải chứng ngộ được vô ngã. Và để chứng ngộ vô ngã, chúng ta phải phát khởi được tâm vị tha.
Câu kệ tiếp theo trên Điệp Quy Y là: “Con xin quy y chư vị Thiện Tri Thức, là tinh tuý của Tăng thân.” Trong ngữ cảnh của những lời nguyện quy y thì các thiện tri thức chính là những người bạn đạo và các vị đạo sư của chúng ta. Thật ra, nếu con xem bất kỳ vị thầy nào, dù là trong đời hay trong đạo, là thiện hữu tri thức thì con cũng đều đạt được hạnh phúc trong hệ thống đó. Thầy cho rằng việc thể hiện lòng tôn sư trọng đạo với tất cả những vị thầy là vô cùng quan trọng. Vì thế, tinh tuý của tăng thân chính là thiện tri thức. Ý nghĩa của khẩu giác ngộ cũng là như thế.
Nói về phẩm tánh của tâm giác ngộ, Sơ Tổ Jigten Sumgon đã nói như sau trong tác phẩm Gongchig: “Tinh yếu của ba thừa đồng là một công hạnh [giác ngộ]” Tối hậu thì, cả ba thừa – Biệt Giải Thoát, Bồ Tát và Kim Cang – đồng là một. “Là một” bởi vì khi tình yêu thương vô lượng khởi sinh và ta chứng ngộ tri kiến Đại Thủ Ấn, một cách tự nhiên ta sẽ không làm hại các chúng sinh khác, và như thế ta sẽ viên thành mục đích lợi tha mà không cần dụng công. Vì thế, trên Điệp Quy Y ta viết rằng:
“Khi không hãm hại chúng sinh và loại bỏ được gốc rễ của ác hạnh, Biệt Giải Thoát giới sẽ viên thành.
Khi luôn giúp đỡ chúng sinh và thành tựu được gốc rễ của thiện hạnh, Bồ Tát Giới sẽ viên thành.
Khi thâm nhập tri kiến thanh tịnh về toàn thể vũ trụ và chúng sinh, Mật giới sẽ viên thành.”
Ví dụ, khi lòng vị tha khởi sinh nơi tâm bồ đề trong dòng tâm thức của ta thì, cũng như Đức Milarepa đã nói: “Mười thiện hạnh sẽ trở thành sự hoạt hiện tự nhiên của công hạnh [giác ngộ].” Như thế, một cách tự nhiên ta sẽ không còn làm hại chúng sinh. Khi chúng ta từ bỏ việc não hại chúng sinh thì đồng thời ta sẽ viên thành công hạnh giúp người và các nhân của công hạnh ấy. Khi chúng ta giữ Bồ tát giới, ta sẽ viên thành công hạnh lợi tha. Tinh tuý của Bồ tát giới chính là sáu ba la mật.
Khi thâm nhập tri kiến thanh tịnh về toàn thể vũ trụ và chúng sinh, Mật giới sẽ viên thành. Đức Drikung Dharmaraja nói rằng: “Vũ trụ [này, mọi hoá hiện của] hình tướng và hiện hữu phải được nhìn nhận như là thân tướng của Bổn tôn. Đây chính là cảnh giới viên mãn của giai đoạn sinh khởi trong Mật thừa.”
Khi những che chướng tạm thời của chúng sinh được xua tan thì sẽ không còn có chúng sinh nào nữa. Vũ trụ này cùng toàn thể chúng sinh từ bản thể vốn là thanh tịnh và chỉ bị che chướng bởi những vết nhơ nhất thời mà thôi. “Thanh tịnh” nghĩa là gì? Nhận thức nhị nguyên, ví như việc phân định “luân hồi và niết bàn” cùng nhiều ví dụ khác sinh ra do bởi vô minh, và như thế, là “bất tịnh.” Chúng ta phát khởi tri kiến thanh tịnh về vũ trụ cùng toàn thể chúng sinh khi tất cả mọi bám chấp nhị nguyên như thế được tịnh hoá.
Thức này nhìn nhận vạn pháp dưới góc độ nhị nguyên, và một khi vẫn còn có sự bám chấp vào nhị nguyên thì luân hồi vẫn còn hiện hữu. Khi chúng ta thấy được bản tánh của thức, ta sẽ được tự do khỏi mọi bám chấp nhị nguyên và khi bám chấp nhị nguyên được tịnh hoá thì vạn pháp sẽ hoá hiện trong bản tánh thanh tịnh nguyên sơ. Khi ta thấy được vũ trụ cùng toàn thể chúng sinh là thanh tịnh thì cảnh giới thanh tịnh vô biên sẽ mở ra trước mắt ta. Bát Nhã Tâm Kinh nói về “nhìn thẳng vào trực nghiệm của trí tuệ toàn hảo thâm sâu”. Tri kiến thanh tịnh khởi sinh chính từ sự chứng ngộ bản tánh thật sự của tâm ta. Vì thế, khi thức mê lầm bám chấp vào nhị nguyên không còn nữa, ta gọi thức này là trí tuệ nguyên sơ. Marpa Lotsawa đã nói rằng: “Chứng ngộ, là chứng ngộ tánh giác tự nhận biết”
Tiếp theo trên điệp quy y viết:
Không làm các việc ác,
Làm tất cả việc thiện,
Hoàn toàn điều phục tâm,
Đây là lời phật dạy.
Khi Bồ đề tâm trân quý khởi sinh nơi tâm con thì mười ác hạnh sẽ tự nhiên được tịnh hoá, và như vậy con cũng sẽ thực hành mười thiện hạnh thật tự nhiên. “Điều phục tâm” có nghĩa là gì? Thứ chúng ta cần phải điều phục chính là tâm chấp ngã. Khi không còn chấp ngã, ta và người trở thành bất khả phân. Lấy ví dụ, sự khác biệt duy nhất giữa con và chúng sinh khác cũng giống như sự khác biệt giữa nước và băng. Băng vốn chính là nước, nó chỉ tạm thời bị đông cứng trong trạng thái đóng băng mà thôi. Điều này cũng giống như những ô nhiễm nhất thời nảy sinh từ sự chấp mê vào cái ngã. Vì thế, điều phục tâm chính là điều phục chấp ngã. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chính là phương pháp để tịnh trừ chấp ngã.
Trên Điệp còn có tôn ảnh của Đức Thích Ca Mâu Ni. Đây chính là tôn ảnh chụp lại từ tôn tượng chính của Đức Thích Ca tại Bồ Đề Đạo Tràng, thánh địa nơi Phật đạt thành giác ngộ. Tôn tượng này được an toạ ngay chính nơi Đức Phật đạt giác ngộ, và người ta tin rằng tôn tượng này giống hệt Ngài. Do bởi chỉ cần thoáng thấy kim thân Phật trong khắp vũ trụ vô biên này thôi cũng đã là phước báu nên thầy đã cho in tôn ảnh này lên Điệp Quy Y.
Đồng thời trên Điệp cũng có một hình ảnh của Đức Tara, Đấng Độ Mẫu, Đấng Toàn Giác. Như thế, Tam Bảo đã được hiển hiện trọn vẹn trong chính Điệp Quy Y này. Tôn ảnh của Đức Thích Ca Mâu Ni là Phật, hình ảnh của Đại Pháp Thân Tara Độ Mẫu là Pháp, và bởi vì thầy là người truyền giới cho các con nên hình ảnh của thầy sẽ đại diện cho Tăng thân. Thân, khẩu và ý giác ngộ của tất thảy chư Phật hiển hiện trọn vẹn nơi vị đạo sư.
—
Nguồn: Garchen.net
Ina Bieler dịch Tạng – Anh
Dan Clarke hiệu đính, 2019.
DAC dịch và biên tập.