Vô hạn đại kiếp trong quá khứ, trong một thế giới đã xuất hiện một vị Chuyển Pháp Luân Thánh Vương (Chakravartin) quyền năng mang danh Tsib-Kyi Mu-Khyü, Ngài đã an lập chúng sinh trong cõi nước của mình trên đạo lộ thập thiện. Ngài là cha của một ngàn vị hoàng tử thiện lành. Cuối cùng, nhà vua trở thành một tu sĩ, đạt được giác ngộ, và trở thành Long Vương Quang Như Lai. Vị Phật này chuyển Pháp luân một cách rộng khắp và đã làm chín muồi, giải thoát vô số chúng sinh hữu hình và phi hình. Một nghìn người con trai của Ngài đều trở thành tu sĩ và phát khởi bồ đề tâm, ngoại trừ người con út do vẫn còn tham luyến đời sống vương giả. Cha của chư vị đã đưa ra lời tiên tri tiên đoán về sự giác ngộ của các con trai của mình: chư vị sẽ chứng đắc thành vị Phật nào, gia đình [đầu thai], tên tuổi và cõi nước của mỗi vị để thuần hóa chúng sinh. Với ý định đưa người con út của mình vào con đường giác ngộ, Long Vương Quang Như Lai đã hoá hiện ra hai nhà sư và tiễn họ đến với hoàng tử út. Tụng những bài đạo ca ngọt ngào dạy người tâm xả ly, các nhà sư đến nơi thái tử đang đắm mình trong dục lạc. Bằng sức mạnh từ bi của Đức Phật, mọi thứ trong cung điện và cây cối bên ngoài bắt đầu ca vang âm thanh của Giáo pháp. Hoàng tử chuyển tâm và nảy sinh tâm xả ly luân hồi. Sau đó, hoàng tử đã chuẩn bị [1000] chiếc lọng vàng đính đầy châu ngọc và cúng dường cho cha mình, Đức Phật [Long Vương Quang], cùng các anh của mình. Ngài phát bồ đề tâm và đã trở thành một tu sĩ. Đức Long Vương Quang Như Lai đã đưa ra một lời tiên tri rằng trong tương lai, ngàn người con trai của Ngài sẽ trở thành một ngàn vị phật trong thời hiền kiếp. Người con trai út sẽ là vị phật cuối cùng của đại kiếp này, Đức Phật Vô Hạn Nguyện. Công hạnh giác ngộ của vị Phật này sẽ vượt qua mọi công hạnh của tất cả các vị Phật trước đó.
Tổ Jigten Sumgon nói, “Lúc đó ta là Long Vương Quang Như Lai và ngươi, Gar Chodingpa, là con trai út của ta, người tham luyến cuộc đời vương giả.” Nhờ nguyện lực cát tường của Long Vương Quang Như Lai và người con trai trong quá khứ mà hai vị đã cùng nhau xuất thế lại lần nữa ở Ấn Độ với tên gọi là Āchārya Nāgārjuna (Long Thọ) và đệ tử Aryadeva (Thánh Thiên), và một lần nữa ở Tây Tạng thành Sơ Tổ Jigten Sumgon và đệ tử Gar Chodingpa. Hơn nữa, vào thời vào thời Pháp Vương Songtsen Gampo, Garchen Rinpoche còn xuất hiện với vai trò là Gar Tongtsen một vị đại thần của nhà vua; Chogro Lui Gyaltsen, đệ tử của Đức Phật thứ hai Padmasambhava; và là trưởng tử của Đức Milarepa, Rechung Dorje Dragpa. Nhiều hóa thân của Ngài cũng đã xuất hiện ở các cõi tịnh độ, chẳng hạn như xứ Uddiyāna, Đảo Sư tử, Shambhala, v.v., nơi Ngài hoạt hiện vì mục đích của chúng sinh.
Khi Gar Chodingpa ra đời là Gar Tongtsen, Ngài đã hộ tống công chúa của Hoàng Đế Đường Thái Tông về làm hoàng hậu cho Đức Vua Songtsen Gampo. Vị đại thần và công chúa đã mang về [Tây Tạng] một chiếc kinh luân đặc biệt. Đại thần Gar đã bảo quản chiếc kinh luân này và do biết trước tương lai, ông đã giấu nó tại Sha’ug Tago và phong ấn bằng một lời cầu nguyện để sau này [hoá thân của] Ngài sẽ khai lộ và lưu giữ trong tương lai. Sau này, Gar Chodingpa đã khai quật chiếc kinh luân này và đặt nó trong một ngôi đền ở Pumu Phulung bên dưới Núi Đá Kim Cang. Vì lý do lắp đặt chiếc kinh luân này mà tu viện Phulung ra đời từ đó. Ngài đã giữ gìn phúc lạc của chúng sinh trong suốt tám hóa thân chính tại tu viện này. Hóa thân thứ 8 của Ngài tại Tu viện Phalung và cũng là hóa thân đầu tiên tại Tu viện Gar, chính là Đức Gar Tenzin Phüntsog, con trai của vua Nangchen, Karma Rabten. Bậc thủ ngôi thứ 20 trong truyền thừa Drikung nhận Pháp vương vô song Tenzin Phüntsog làm đạo sư. Đức Achi Chökyi Drölma đã tiên tri với vị đạo sư thiêng liêng rằng: “Hãy cất giấu chiếc kinh luân quý giá này ở phương Bắc, tại một tảng đá trắng có hình một con sư tử đang nhảy lên không trung.” Đức mẹ Achi biết rằng vị đạo sư và thánh vật này sẽ mang lại lợi ích to lớn cho chúng sinh. Tuân theo lời tiên tri, Đức Gar Tenzin Phuntsok đã đi từ Pumu đến Nangchen. Vì Pháo Đài Trên Không của Sư Tử Nangchen phù hợp với lời tiên tri, và bởi vì Ngài thấy rằng nơi đó được ban cho những điềm lành, nên đã định cư ở đó. Từ đó, Tu viện Gar, Pháo Đài Trên Không của Sư tử ra đời.

Theo lời tiên tri của Đạo Sư Liên Hoa Sanh trong Bí Mật Tập Hội Mật Điển vĩ đại do Đức Ratna Lingpa khai lộ, Đức Tenzin Phüntsog là một hóa thân của Đức Quán Thế Âm Avalokiteśvara. Hơn nữa, mật tạng nói rằng nếu tuyển tập giáo lý Bí Mật Tập Hội và các thánh vật chứa trong terma này đến được tay Tenzin Phüntsog thì Ngài sẽ mang lại lợi ích to lớn cho chúng sinh của các thế hệ tương lai trên thế giới này. Như các hướng dẫn đã được xác định rõ trong terma, con trai của Đức Ratna Lingpa là Tsewang Dragpa đã thu thập các thánh vật của terma và lên đường đi từ miền Trung Tây Tạng đến miền Đông của tỉnh Kham, để tìm kiếm Đức Tenzin Phüntsog. Khi họ gặp nhau, anh đưa các thánh vật vào tay Ngài. Tenzin Phüntsog đã vui mừng khôn xiết và nói, “Có vẻ như lời tiên tri của Guru Padmasambhava tương ứng với tên của tôi, một ông già như tôi.” Ngài ăn một mẩu nhỏ chất liệu của terma và chân bắt đầu lơ lửng trên mặt đất. Kể từ đó, Drubchen Bí Mật Tập Hội đã được thực hành thường xuyên tại Tu viện Gar, Pháo Đài Trên Không của Sư Tử, và cũng từ đó chiếc kinh luân trân quý bắt đầu quay không ngừng dứt. Như thế, những dấu hiệu cho thấy Ngài sẽ mang lại lợi ích to lớn cho chúng sinh đã trở thành rõ rệt. Tăng chúng đã phát triển rất mạnh mẽ tại nơi này. Gar Tenzin Phüntsog được chỉ định làm đạo sư chính của Đức Vua Nangchen, và từ đó trở đi, mọi hóa thân của Garchen Rinpoche đều trở thành Đạo sư chính của các vị vua Nangchen.
Garchen Rinpoche đời thứ hai, Đức Gar Tenzin Dragpa, được Đấng toàn tri Chökyi Dragpa công nhận là hóa thân của Đức Gar tiền nhiệm. Ngài đã nhận và thực hành tất cả các giáo lý Drikung thâm sâu từ Bậc Thủ Ngôi đời thứ 24 của truyền thừa Drikung, Đức Je Trinlé Sangpo. Theo ý nguyện của Đức [Hộ Pháp] Mahākāla, khi tăng chúng tại Tu viện Thượng trở nên quá lớn, Tu viện Jangchubling Hạ được thành lập và phát triển vô cùng thịnh vượng.
Garchen Rinpoche đời thứ ba, Đức Gar Chökyi Nyima, trở thành đệ tử tâm truyền của Đức Kyabgön Chungtsang Döndrup Chögyal đời thứ hai, Bậc thủ ngôi đời thứ 25 của truyền thừa Drikung. Ngài đã đạt đến mức độ thành tựu cao tột thông qua thực hành Thắng Lạc Kim Cang Chakrasamvara. Ngài thị hiện vô vàn dấu hiệu của thành tựu, chẳng hạn như bay trên bầu trời, treo y áo của mình trên một tia nắng, để lại dấu chân và tay trên đá, v.v. Mặc dù Ngài hầu như chỉ nhập thất thiền định, nhưng cũng đã tập hợp một nhóm lớn các đệ tử. Đấng Thủ Ngôi đời thứ 27 của truyền thừa Drikung, Kyabgön Chökyi Nyima, đã nhận được những chỉ dẫn từ Ngài về dòng truyền thừa tối thượng. Vì vậy, Ngài trở thành vị Tổ tối thượng của dòng truyền và những đóng góp của Ngài cho giáo lý Drikung Kagyü là vô cùng to lớn. Các trưởng tử tâm truyền của Ngài là Đức Kyabgön Chökyi Nyima và các Lạt ma cao cấp – Mingyur và Namröl – ngoài ra còn nhiều đệ tử phi thường khác.
Garchen Rinpoche đời thứ tư, Đức Gar Tingdzin Jangchub Wangpo, đã thọ nhận, tu học, thực hành và thông thạo nhiều giáo lý sâu sắc, chẳng hạn như Đại Thủ Ấn Năm Nhánh Mahāmudrā và Sáu Pháp Du Già của Naropa theo truyền thừa Drikung; cũng như các tuyển tập giáo lý về Yangzab và Yamāntaka từ Đức Tendzin Chökyi Gyaltsen, Đức Kyabgön Chungtsang Rinpoche đời thứ 4 đồng thời cũng là Bậc Thủ Ngôi đời thứ 29 của truyền thừa Drikung, và Đức Hlo Chökyi Gyaltsen. Sau đó, ngài truyền lại nhiều giáo lý Drikung thâm sâu cho Đức Chönyi Norbu, Kyabgön Chungtsang Rinpoche đời thứ 5 và cũng là Bậc Thủ Ngôi thứ 30 trong truyền thừa Drikung. Vì vậy, công hạnh của Ngài thật vô biên.
Garchen Rinpoche đời thứ năm, Đức Garchen Tenpé Dzegyen, còn được gọi là Tenpé Gyaltsen đã xuất gia dưới sự hiện diện của Đức Dilyag Datrül. Ngài đã thọ nhận, tu học và thực hành nhiều quán đảnh cùng giáo lý của dòng Drikung, đặc biệt là pháp tu Yangzab, từ người Bậc Thủ Ngôi đời thứ 31 của truyền thừa Drikung, Đức Kyabgön Thugjé Nyima. Ngài là một đạo sư vĩ đại, người trì giữ ba bộ giới nguyện. Ngài trao giới nguyện Bồ tát và hầu hết các quán đảnh và giáo lý của dòng Drikung cho Tertön Hlo Bongtrül Nüden Dorje vĩ đại, như thế, Ngài trở thành bậc trưởng thượng của dòng truyền.
Garchen Rinpoche đời thứ sáu, Đức Garchen Pemé Gyaltsen, được Bậc Thủ Ngôi đời thứ 31 của truyền thừa Drikung, Đức Kyabgön Thugjé Nyima, công nhận là hóa thân của Đức Gar tiền nhiệm. Tuy nhiên, Ngài đã qua đời không lâu sau đó.
Garchen Rinpoche đời thứ bảy, Đức Garchen Trinlé Yongkhyab, được công nhận bởi Bậc Thủ Ngôi đời thứ 32 trong truyền thừa Drikung, Đức Kyabgön Chökyi Lodrö. Từ Đức Hlo Bongtrül Nüden Dorje, ngài đã nhận hầu hết các quán đảnh và giáo lý của dòng Drikung, cũng như các quán đảnh và trao truyền một số giáo lý terma từ các vị Tertön. Từ Đức Gar Ajin, Ngài thọ nhận được pháp Đại Thủ Ấn Năm Nhánh và Sáu Yogas của Naropa. Ngài đã thực hành, thuần thục và đạt được chứng ngộ. Phối ngẫu của Ngài là Karzang Chödrön. Đệ tử chính của Ngài là Siddha Chime Dorje, và nhiều đệ tử khác từ nhiều nơi khác cũng đạt được thành tựu, chẳng hạn như Palmé Khyentrül Künzang Drodül, Rathro Tertön Tashi Namgyal, và Drubwang Gejung. Vì Ngài lại lấy một vị phối ngẫu khác nên việc ở lại tu viện trở nên phức tạp, và do đó phải chuyển đi nơi khác. Tuy nhiên, hai năm sau, Ngài được mời trở lại tu viện một lần nữa.
Garchen Rinpoche đời thứ tám, Đức Garchen Könchog Ngedön Tenpé Nyima, sinh năm 1937. Năm sáu tuổi, theo lệnh của Đức vua Nangchen, Ngài được Kyabgön Shiwé Lodrö công nhận là hóa thân của Gar Trinley Yongkhyab. Năm mười ba tuổi, ngài vào Tu viện Hlo Lungkar và ở đó trong mười một năm. Từ Hlo Bongtrül Tendzin Drodül và Hoá Thân Tối Thượng Thubten Nyingpo, Ngài đã thọ nhận nhiều quán đảnh và trao truyền của cả hai phái Tân Mật và Cựu Mật, và đặc biệt, đã nhận được theo dòng truyền thừa của riêng các quán đảnh và trao truyền sau: Tám Herukas, Kết Tinh của Giác Ngộ, Kim Cang Phổ Ba và cả Dechen Nyingpo. Từ Drubwang Gejung, Ngài đã nhận được các pháp Đại Thủ Ấn Năm Nhánh và Sáu Yogas của Naropa. Lại nữa, từ Siddha Chime Dorje và trưởng lão Lama Tengye, Ngài đã nhận được nhiều quán đảnh và giáo lý của dòng Drikung.
Mặc dù đã vào kỳ nhập thất ba năm theo truyền thống, nhưng Ngài đột ngột bị buộc phải kết thúc nhập thất do tình trạng hỗn loạn chính trị bùng phát. Ngài bị buộc phải tham chiến và cuối cùng bị bắt. Ngài đã phải ngồi tù suốt hai mươi năm, bị buộc phải lao động khổ sai và phải chịu đựng bao nhiêu gian nan cay đắng. Tuy vậy, tâm Ngài vẫn trong sáng và không bao giờ dao động trước mong nguyện vị tha giúp đỡ cho người khác. Ngài được tất cả bạn tù quý mến và trở thành tấm gương mẫu mực, là một người đàn ông đáng kính. Trong thời gian ở tù, Ngài đã bí mật nhận các giáo lý về Dzogchen từ Khenpo Münsel. Ngài đã thực hành với quyết tâm cao độ và đã trở thành người trưởng tử tâm truyền của Khenpo Münsel, và Khenpo Munsel đã truyền lại cho Ngài toàn bộ dòng truyền thừa tối thượng.
Năm 1980 Garchen Rinpoche được thả ra tù. Trên đường đến Pemagö để gặp mẹ mình, Ngài đã thu thập các pháp bảo được chứa đựng trong các hiện thân về thân, khẩu và ý giác ngộ vốn đã bị phá hủy ở miền Trung Tây Tạng. Sau đó, ngài trở lại tu viện, và cùng với Mingyur Rinpoche, Ngài bắt đầu xây dựng lại tu viện từ nền móng và khôi phục lại Tu viện Gar. Ngày và đêm, Ngài đáp ứng hy vọng và nhu cầu của các đệ tử tín tâm từ khắp mọi nơi. Hoàn toàn từ bỏ mục đích của chính mình, Ngài cống hiến hết mình vì lợi lạc của người khác. Danh tiếng Đại Bồ Tát của Ngài như gió toả khắp muôn nơi. Chính quyền tỉnh Thanh Hải đã trao cho tặng cho Ngài danh hiệu danh dự: “Người Luôn Mong Nguyện Làm Lợi Nhân Dân”.

Thêm nữa, Ngài luôn cố gắng giúp đỡ cuộc sống của những người khác bằng nhiều cách khác nhau. Vì tâm của Ngài luôn ngập tràn trí tuệ từ Bồ đề tâm toàn hảo, Ngài thậm chí còn trao cho loài thú hoang món quà là nơi quy y vô uý. Ngài đã nhận được nhiều danh hiệu bởi những thành tựu phi thường của mình. Không chỉ đảm nhận trọng trách với tu viện của mình, Ngài còn hỗ trợ toàn bộ giáo lý và tất cả chúng sinh nói chung. Đặc biệt Ngài đã giúp xây dựng lại tất cả các tu viện Drikung ở tỉnh Kham. Garchen Rinpoche đã giúp đỡ họ bằng rất nhiều cách, giảng Pháp, cúng dường vật chất trực tiếp, gián tiếp, và còn nhiều cách khác. Ngoài ra, Mingyur Rinpoche cũng đã bắt đầu ban rộng rãi các giới nguyện tu sĩ của Getsül và Gelong ở các tu viện khác nhau.
Khi Garchen Rinpoche đến thăm Drubwang Pachung Rinpoche ở Drikung Thil, Ngài rất vui mừng đặt cả hai tay lên đỉnh đầu của Garchen Rinpoche và nói, “Vì tôi đã trao cho Ngài dòng truyền thừa tối thượng, Ngài phải phụng sự cho giáo lý của dòng Drikung.”
Rinpoche đã tái lập Tu viện Gar từ một hòn đá tảng đơn thuần và phát triển nó thành một tu viện thậm chí còn lớn hơn cả trước đây. Ngài cũng cho phục hồi các nghi lễ thường quy vốn đã suy tàn, khiến các thực hành này giờ đây trở nên hưng thịnh.
Năm 1997, Garchen Rinpoche du hành đến Ấn Độ và trao một số quán đảnh và giáo lý cho Drikung Kyabgön Chetsang Rinpoche tối thắng. Ngoài ra, Rinpoche còn ban các quán đảnh và giáo lý khác nhau theo dòng Drikung tại trụ sở chính của Drikung, tu viện Jangchubling, cho hàng trăm đệ tử vào hai dịp khác nữa.
Hơn nữa, Rinpoche đã đi khắp thế giới và chuyển Pháp luân cho nhiều đệ tử thân tín tùy theo thỉnh cầu của họ. Cho đến nay Rinpoche đã đi hoằng pháp trên hơn ba mươi ba quốc gia. Chỉ một phần nhỏ trong các công hạnh giác ngộ của Ngài được đề cập đến ở đây. Rinpoche đã thiết lập hơn hai mươi trung tâm giáo pháp trên khắp thế giới. Ở Kham, Rinpoche vẫn hỗ trợ hết mình cho các tu viện của Drikung; Ngài đã thiết lập một nền tảng ổn định, kiên cố và hoàn thiện bằng cách cho xây dựng lại các Tu viện Thượng và Hạ, cũng như ni viện. Thêm vào đó, Ngài đã thành lập một trung tâm nhập thất, một trường cao đẳng, và một bệnh xá. Hơn nữa, Ngài đã thành lập các trường học tại năm địa điểm liên kết với Ngài.
Trên đây chỉ là một vài lời giới thiệu ngắn gọn, một ghi chép đầy đủ sẽ không bao giờ có lời kết thúc.
– Những điều trên được viết bởi đệ tử Ven. Thubten Nyima, hay còn gọi là Ven. Gape Lama.
Nguồn:
Gape Lama 2012, ‘The successive line of Kyabje Garchen Rinpoche’s manifestations and a brief historical account of Gar Monastery’, Ina Bieler dịch và hiệu đính 2020, Garchen Buddhist Institute.
DAC biên tập và cẩn chuyển Việt ngữ.
 
				 
															
