Bình Giảng Về 7 Đoạn Kệ Khấn Nguyện Đức Tara – Ngày 2

Dorzin Dhondrup Rinpoche bình giảng về "Bảy Đoạn Kệ Khấn Nguyện Đấng Bảo Hộ Tara" trong khoá tu Bạch Độ Mẫu lần thứ 19 tại Singapore.
Poster Tara Retreat

Dorzin Dhondrup Rinpoche bình giảng về “Bảy Đoạn Kệ Khấn Nguyện Đấng Bảo Hộ Tara” trong khoá tu Bạch Độ Mẫu lần thứ 19 tại Singapore, 2024–2025.

Ngày 2

Hôm nay là ngày đầu tiên của năm mới 2025. Đây là thời điểm   vô cùng quan trọng và cát tường. Chúng ta thật may mắn khi có thể cùng nhau thực hành Đức Tara vào thời khắc đặc biệt này. Do đó, trước tiên, Thầy xin chúc mừng năm mới đến tất cả các bạn, Tashi Delek!  

Điều quan trọng là chúng ta phải khởi phát động cơ đúng đắn. Vào ngày đầu năm mới, động cơ của chúng ta có sức mạnh rất lớn. Vì vậy, hãy khởi tâm rằng trong năm mới này, ta sẽ làm những điều thiện lành, sẽ tận dụng thời gian quý báu này để tích tập công đức và tạo các thiện nghiệp. Chúng ta hãy phát nguyện sẽ thực hành Pháp, làm những việc lợi ích cho chúng sinh và tích lũy công đức. Đây là cách khởi đầu năm mới rất tốt.

Tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục với đoạn kệ thứ ba trong Bảy Đoạn Kệ Khấn Nguyện Đức Tara:

“Khi ý nghĩa của đạo pháp chưa nở hoa trọn vẹn trong tim,
Ta bị lôi cuốn theo lời lẽ tầm thường của thế gian.
Có kẻ bị lừa dối, tin theo giáo điều.
Xin Đức Quan Âm Toàn Bích hãy dẫn dắt họ.”

Đây là điều mà mỗi hành giả chúng ta phải dụng tâm quán chiếu. Những dòng kệ này vô cùng sâu sắc và ý nghĩa.

Khi thực hành pháp và ý nghĩa của giáo Pháp thật sự khởi sinh từ sâu thẳm trái tim thì ta sẽ đạt được giải thoát và đạt được hạnh phúc tạm thời trong kiếp này lẫn an lạc viên mãn rốt ráo. Đây là điều ta muốn, đúng không, đây cũng chính là lý do chúng ta thực hành. Tuy nhiên, điều quan trọng là ta phải tự quán chiếu xem: Pháp đã thật sự khởi sinh từ sâu thẳm trong trái tim ta hay chưa? Tâm ta đã thật sự kết nối với Pháp chưa?

Mỗi người cần tự nhìn lại, tự kiểm nghiệm trong chính nội tâm mình. Giờ đây, ta đã có được thân người quý báu, đã gặp được Phật pháp, đã quy y Tam Bảo. Ta cầu nguyện, thiền quán, tích tập công đức. Ta thực hành nhiều nhưng điều quan trọng là phải tự hỏi: Những việc ấy có thật sự tương hợp với Pháp không? Tâm ta có thật sự hiện diện trọn vẹn [lúc công phu] không?

Điều này chỉ bản thân ta mới có thể tự trả lời, không ai khác có thể biết được. Bên ngoài, người khác có thể thấy ta giống như một hành giả chân chính: Họ thấy ta đang ngồi thiền, đang nhập thất, xoay kinh luân, lần xâu chuỗi, trì tụng mật chú, đi nhiễu (kora), lễ lạy, … Nhìn bên ngoài thì dường như ta đang thực hành rất nhiều, người khác có thể nghĩ: ‘Ồ, người này thật sự đang thực hành Pháp.’ Nhưng chỉ có chính ta mới biết rõ Pháp có thật sự khởi sinh trong tâm mình hay không mà thôi. 

Vậy, Pháp thật sự khởi sinh trong sâu thẳm trái tim là như thế nào?

Chúng ta phải tự hỏi rằng mình có thật sự hiểu sâu sắc về vô thường không? Nếu vô thường ăn sâu bén rễ trong tâm thức thì có nghĩa là Pháp đã “nở hoa trọn vẹn trong tim”. Hoặc, ta đã thật sự tin sâu nhân quả hay chưa? Ta có đang nỗ lực hết mình để tuân theo nhân quả trong từng sát na hay chưa? Đây là những gì ta cần phải tự mình quán xét chứ không phải là chỉ làm ra vẻ như ta đang thực hành.

Phải tự vấn xem mình có thực sự đặt trọn niềm tin bất hoại nơi Tam Bảo hay chưa? Ta đang thực hành những thiện hạnh nào? Ta có yêu thương chúng sinh không, nhiều đến mức nào? Ta đã làm được bao nhiêu việc thực sự đem lại lợi ích cho chúng sinh khác? Khi ta ngồi thiền, hay đọc những lời cầu nguyện, hay khi làm việc thiện, liệu tâm ta có trọn vẹn tin sâu nhân quả? 

Tất cả những câu hỏi này chẳng ai có thể trả lời thay ta được. Người ngoài chỉ nhìn thấy vẻ ngoài của ta mà thôi. Họ chỉ thấy ta ngồi thiền, nhiễu tháp, lễ lạy hệt như một hành giả tinh tấn và dễ dàng nghĩ rằng ta là hành giả Pháp đích thực. Nhưng người ngoài sao có thể nhìn thấu tâm ta? Chỉ có ta mới có thể tự quán xét chính tâm mình mà thôi. Vì vậy, hãy tự vấn: ‘liệu Pháp có nở hoa trọn vẹn trong tim mình chưa? Mình có thật sự đang thực hành Pháp không? Mình có thật sự tin sâu nhân quả chưa? Niềm tin Tam Bảo nơi tim mình có thật sự là bất hoại? Mình có thật rõ nghĩa vô thường? Nếu câu trả lời là có thì “ý nghĩa của đạo Pháp đã nở hoa trọn vẹn trong tim”. Nếu câu trả lời là không thì cũng có nghĩa rằng trong tâm ta chưa hoàn toàn có Pháp. Và nếu đã như vậy, thì ta phải nhìn thẳng vào lòng tín tâm Tam Bảo của mình, vào sở học vô thường của mình. Thực hành Pháp phải có kết nối với tâm. 

Dĩ nhiên, chúng ta đều có một chút tín tâm đối với Tam Bảo và động cơ thiện lành trong khi thực hành Pháp. Nhưng cho dù như thế, Pháp vẫn có thể chưa hoàn toàn thấm sâu và kết nối trọn vẹn với tâm ta. Vì vậy, đây là điều mỗi hành giả cần phải tự thân chiêm nghiệm. 

Câu kệ tiếp theo nói rằng nếu chỉ có bề ngoài mà không có sự chuyển hóa từ bên trong, thì cuối cùng sẽ “bị lôi cuốn theo lời lẽ tầm thường của thế gian”. Khi ta nói ta cần phải tu học Phật Pháp thông qua [tam tuệ] văn, tư, tu – điều này chủ yếu có nghĩa là ta cần phải áp dụng các giáo huấn để rèn luyện tâm. Ví dụ, ta phải thực hành nhân quả, chứ không chỉ hiểu thôi là đủ.

Khi học hỏi về Pháp, ta có thể có thêm kiến thức sâu rộng về các giáo huấn nhưng vẫn có khả năng ý nghĩa thật sự của Pháp chưa nở hoa trọn vẹn trong tim. Đây là ý nghĩa của câu: “ta bị lôi cuốn theo những lời lẽ tầm thường của thế gian.” Hay nói cách khác, ta bị cuốn theo những lời lẽ [sáo rỗng]. Các bạn có thể nói Pháp, có thể giải thích cặn kẽ  ý nghĩa của Pháp nhưng sâu thẳm trong tâm lại không thật sự đặt trọn niềm tin, không hoàn toàn xác tín.

Vấn đề này không chỉ xảy ra với các vị đệ tử mà còn có thể xảy ra với các vị thầy nữa. Có vị giảng sư nghĩ rằng mình đã học rất nhiều, và người nghe cũng có thể nghĩ họ đã biết quá rõ các giáo lý này rồi, nhưng thật ra tất cả chỉ mới dừng lại về mặt chữ nghĩa và điều này không đồng nghĩa với việc thấm nhuần giáo huấn. Ví dụ, ai cũng biết về luật nhân quả, nhưng có mấy ai thật sự tuân theo và tin tưởng nhân quả đây? Như thế, dù là gì cũng vậy, hiểu lý thuyết thôi là chưa đủ, phải có sự thực hành. Và lỗi lầm này có thể xảy ra với bất cứ ai. Nhiều vị đạo hữu như thế và cũng có nhiều vị lạt ma như thế.

Lấy ví dụ về một thực hành luyện tâm đơn giản như 37 Pháp tu Bồ Tát. Các đạo hữu có thể nghĩ rằng: ‘Ta đã học 37 Pháp tu Bồ Tát rồi, đã thực hành các pháp tu Bổn Tôn an bình rồi, bây giờ chỉ muốn tu các Bổn Tôn phẫn nộ’. Có thể họ tin rằng Bổn Tôn phẫn nộ có năng lực mạnh mẽ hơn và mong nhận được sự gia trì mạnh mẽ đó. Cũng có thể do ngôn ngữ dùng trong các nghi quỹ thực hành Bổn Tôn phẫn nộ thì mạnh mẽ, ấn tượng, cao siêu hơn nên họ yêu thích và không muốn thực hành các pháp tu nền tảng nữa. Đây cũng là một dấu hiệu của trạng thái “khi ý nghĩa của đạo pháp chưa nở hoa trọn vẹn trong tim”.

Nếu chúng ta tiếp cận Pháp theo cách ấy thì cho dù có tu tập các vị Bổn tôn phẫn nộ đi nữa cũng sẽ không đạt được thành tựu. Bởi thành tựu chỉ có thể đến khi tâm ta thật sự có một [nền tảng vững chắc] ví như niềm tin sâu nhân quả. Có người nghĩ rằng: ‘Con đã biết về Đức Quan Âm Tara, con đã thực hành Đức Tara một thời gian rất lâu rồi. Con cũng đã tu Đức Quán Thế Âm (Chenrezig) một thời gian rất lâu, hầu như đã xong rồi. Giờ thì con muốn chuyển sang pháp tu khác.’ Như vậy, dường như, chúng ta đang khởi ý niệm xem thường Đức Quan Âm Tara hay Đức Quán Thế Âm (Chenrezig). Đây thực sự là một sai lầm lớn. Sai lầm ấy phát sinh khi ta chưa thật sự hiểu được cốt tủy của giáo Pháp và không đặt trọng tâm vào điểm chính yếu, đó chính là tình yêu thương và lòng bi mẫn.

Lại có người nghĩ rằng: ‘Tôi thích thực hành Mahamudra (Đại Thủ Ấn) hay Dzogchen (Đại Viên Mãn) hơn, vì nghe thật cao siêu, thật ấn tượng.’ Ta cứ chạy theo những Pháp nghe có vẻ “cao siêu”, thích tánh Không, thích Đại Thủ Ấn, thích Đại Viên Mãn, nhưng lại không quan tâm đến tình yêu thương, lòng bi mẫn, luật nhân quả hay vô thường.

Thực tế, chúng ta tưởng rằng mình đang thực hành những Pháp cao cấp, nhưng trong tâm vẫn đầy rẫy những vọng niệm thế gian. Và cách duy nhất để tịnh hóa những vọng niệm ấy chính là nuôi dưỡng tình yêu thương và lòng bi mẫn. Đó cũng chính là nguồn năng lực chân thật của tất cả các vị Bổn tôn hay bất kỳ pháp tu nào khác. Năng lực ấy chỉ khởi sinh từ tình yêu thương và lòng bi mẫn.

Ví như, có người cho rằng các pháp tu tiên yếu (ngondro) chỉ là phần phụ, đã làm xong từ lâu nên không còn quan trọng, hoặc họ muốn xong nhanh để tập trung vào thiền [Mahamudra]. Họ nghĩ rằng thiền mới là quan trọng nhất. Dĩ nhiên, thiền rất quan trọng. Nhưng vấn đề là, nếu không có nền tảng vững chắc, ta không thể nào chân chính hành thiền được. Dù ta có thể ngồi ngay ngắn, nhưng hành thiền thật ra không hề dễ. Tâm ta lúc đó chẳng khác gì ngọn nến trước gió, liên tục dao động, không thể an trụ. Trong tâm có vô vàn niệm tưởng, cảm xúc và phiền não, nhiều như bụi li ti khắp không gian. Chúng luôn hiện diện, vây quanh ta mọi lúc. Vì vậy, nếu chưa tịnh hóa được phần lớn những niệm tưởng tiêu cực, những tập khí và nghiệp bất thiện thông qua việc thực hành các pháp tu tiên yếu thì việc chân chính hành thiền là vô cùng khó khăn. Người nói những điều như vậy thực ra chưa hiểu được cốt tủy của Pháp, mà chỉ đang chạy theo những gì nghe có vẻ cao siêu, ấn tượng. Điều này không chỉ xảy ra với các đệ tử, mà ngay cả nhiều vị thầy cũng có thể mắc phải lỗi ấy. Đặc biệt trong Kim Cương thừa, khi tu tập các vị Bổn tôn phẫn nộ, lỗi này lại càng dễ phát sinh. 

Tất cả các vị Bổn tôn (Yidam) đều là các Đấng Tôn Quý khởi sinh từ tình yêu thương và lòng bi mẫn. Vì thế hành giả cần phải trưởng dưỡng nền tảng này trước nhất. Dù thực hành [Bổn Tôn an bình như] Đức Tara hoặc các Bổn Tôn phẫn nộ thì trước hết, ta đều phải tịnh hóa tất cả pháp vào tánh không, nuôi dưỡng tình yêu thương và lòng bi mẫn, rồi mới quán tưởng Bổn tôn. Chúng ta không thể nhảy ngay từ một trạng thái rất thấp lên cảnh giới cao; điều này đơn giản là không thể. Ta cần phải đi từng bước một, thực hành tuần tự từng giai đoạn một. Như vậy thật ra, “bị lừa dối tin theo giáo điều” nghĩa là ta đang tự lừa dối chính mình. Vì ta không chú trọng đến những nền tảng là: nhân quả, nghiệp báo, tình yêu thương, lòng bi mẫn và quán chiếu vô thường, mà chỉ mãi chạy theo những điều nghe có vẻ cao siêu. 

Vào thời điểm cận tử, những tích lũy nền tảng trên cực kỳ quan trọng. Nếu chúng ta thiếu đi nền tảng vững chắc, dù ta có thực hành những pháp “cao siêu” đến đâu chúng cũng sẽ không mang lại lợi ích thực sự khi đối diện với cái chết. Khi ấy ta sẽ cảm giác bất lực vì thiếu nền tảng: thiếu niềm tin chân thật vào nhân quả, tình yêu thương, lòng bi mẫn, … Ta chưa thật sự rèn luyện tâm mình nơi những điều ấy mà chỉ mải mê với Mahamudra, Dzogchen hay các vị Bổn Tôn cao cấp của Tối Thượng Du Già Mật (Anuyoga Tantra). Dù đã đọc rất nhiều sách về các Pháp cao cấp này, nhưng ý nghĩa của Pháp ấy có thật sự khởi sinh trong tâm chưa? Khi ta chết đi, những thứ nghe có vẻ hay ho này sẽ là vô dụng. Nghe thì hoành tráng, nhưng vào lúc chết ta vẫn sẽ phải đối mặt với nỗi sợ hãi, hoảng loạn vì chúng vẫn luôn hiện diện trong tâm ta và sẽ phóng xuất ra trong giai đoạn cận tử. Như thế, liều thuốc đối trị với sợ hãi chỉ có thể là tình yêu thương và lòng bi mẫn – các giáo huấn nền tảng mà thôi. Nếu nền móng này không ăn sâu bén rễ trong tâm thì nỗi sợ hãi kinh hoàng sẽ tiếp tục phóng chiếu sau khi ta qua đời. 

Vào lúc lìa đời, hiểu biết lý thuyết đơn thuần là hoàn toàn vô dụng. Điều quan trọng không phải là hiểu được bao nhiêu, mà là ta đã thật sự kết nối sâu đến đâu. Muốn kết nối được như vậy, phải bắt đầu từ nền tảng và dần dần tăng tiến. Đây chính là “giáo lý chân thật” – là tri kiến.

Nói tóm lại, thực hành phải trở thành phương pháp để điều phục các cảm xúc phiền não. Nếu pháp tu không giúp ta điều phục được các phiền não, mà ngược lại còn làm chúng tăng trưởng, ví như ta trở nên ghen tỵ, tranh đua nhiều hơn khi thực hành, thì đó chính là ta đang tự lừa dối chính mình. Lúc ấy, ta chỉ đang chạy theo tà kiến và việc đó sẽ không mang lại lợi ích gì, chỉ làm tăng thêm chấp ngã.

Trên thế giới này có rất nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau, không chỉ riêng Phật giáo. Ở đây, từ “giáo lý” còn được dùng để chỉ rất nhiều tín ngưỡng và truyền thống tâm linh khác nhau trên thế gian. Có nhiều tôn giáo tồn tại, nhưng cũng có rất nhiều người không theo bất kỳ tôn giáo nào.

Về cơ bản, trong Phật giáo, điều cốt lõi Đức Phật dạy chúng ta chính là nhân quả và ý nghĩa của tánh không. Nếu ta thực sự hiểu và thực hành, ta có thể được giải thoát, an lạc, hạnh phúc ngay trong đời này và rốt ráo sẽ thành tựu giác ngộ. Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra nếu ta thực hành đúng đắn. Nếu không thực hành đúng đắn thì dù có hiểu giáo lý, ta vẫn có thể tiếp tục tạo ra các nhân của bám chấp và sân hận, là nguyên nhân đoạ sinh vào ba cõi thấp. Ví dụ, trong tâm ta có thể khởi lên sự xét đoán thiên lệch, nghĩ rằng: “Tôi là Phật tử”, và rồi lại xem thường những tôn giáo khác.

Ngay trong nội bộ Phật giáo cũng có nhiều truyền thống khác nhau, như Đại thừa, Nguyên thủy (Theravada), Kim Cương thừa (Vajrayana). Một số Phật tử thường tự nhận: ‘Tôi theo truyền thống Theravada’, ‘Tôi là hành giả Đại thừa’, ‘Tôi thực hành Kim Cương thừa’, … Và rồi, ta bắt đầu xem truyền thống của mình là cao hơn, còn các truyền thống khác thì thấp hơn, ta không còn duy trì sự kính trọng, tín tâm và tri kiến thanh tịnh đối với những truyền thống khác.

Có người nghĩ rằng: ‘Tôi là hành giả Kim Cương thừa’, hoặc ‘Tôi theo Đại thừa, cao hơn’. Thật sự có rất nhiều người nghĩ như vậy, và nếu ta quán chiếu sâu sắc và trung thực, ta sẽ nhận ra điều này ít nhiều vẫn đang tồn tại trong tâm mình. Ngay cả trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, có những người tự nhận: “Tôi theo Nyingma”, “Tôi theo Kagyu”, “Người này thuộc Sakya”, “Người kia theo Gelug”. Từ đó, rất nhiều sự phân chia, ranh giới được tạo ra trong tâm. Tự thân việc nói “Tôi là hành giả Kagyu” không có gì là sai, điều sai lầm ở đây là khi ta không còn giữ sự kính trọng, tri kiến thanh tịnh và tín tâm đối với các truyền thống khác. Trên thực tế, trong truyền thống Tây Tạng, cũng có nhiều vị Lama chỉ tôn trọng truyền thống riêng của mình theo nhiều cách khác nhau. Ở đây điều quan trọng là ta không nên xem thường bất kỳ truyền thống nào khác. 

Trong các giáo lý cũng từng nói rằng ta cần phải giữ tri kiến thanh tịnh đối với người khác, như trân quý một viên ngọc báu. 

Dĩ nhiên, ta có thể đi sâu vào tu tập theo truyền thống riêng của mình. Ta có thể nói ‘tôi đang thực hành theo truyền thống Kagyu, nhờ vậy tôi có thể đạt được giải thoát’. Điều này hoàn toàn đúng. Nhưng đồng thời, các truyền thống khác cũng có đầy đủ phẩm tính và tiềm năng [đưa chúng sanh đến] giác ngộ tương tự. Vì vậy, tất cả đều xứng đáng được tôn trọng. Chúng ta không nên khởi tâm thiên lệch, nghĩ rằng mình cao cấp hơn hay giỏi hơn ai. Chính những định kiến này, cùng với sự kiêu mạn vi tế, đã dẫn đến vô số xung đột, chiến tranh nhân danh tôn giáo trên thế giới. Ví dụ, có những nơi một nhóm người muốn tiêu diệt tôn giáo khác, hoặc họ muốn củng cố tôn giáo của mình bằng cách hạ thấp, đàn áp những người [theo tôn giáo] khác. Trên thế giới đã và đang có rất nhiều cuộc xung đột, chiến tranh nhân danh tôn giáo như vậy. Điều này cho thấy, những người làm vậy thực chất không thực hành tôn giáo của họ một cách đúng đắn.

Đây chính là điều mà Tổ Jigten Sumgon muốn nói khi nhắc đến “bị lừa dối, tin theo giáo điều”. Đó là khi ta chấp trước vào phe nhóm của mình và khởi tâm phân biệt, bài xích những phe nhóm khác. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến xung đột. Khi ấy, tôn giáo trở thành giả dối, ta đang tự lừa dối chính mình bằng cách bám chấp vào các quy ước hình thức bên ngoài mà không thực sự giải thoát tâm khỏi khổ đau luân hồi.

Khi thực hành tôn giáo theo cách đó, thay vì được giải thoát khỏi luân hồi, ta lại đang tạo thêm nhiều nhân để tiếp tục tái sinh cõi thấp, tạo thêm nhân khổ đau và bất hạnh cho chính mình và người khác. Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ tri kiến thiên lệch, từ tâm chấp ngã. Vì bám chấp vào bản ngã nên trong đời này ta luôn bất an, không hạnh phúc; và trong những đời tương lai, điều này sẽ dẫn đến tái sinh vào ba cõi thấp. Tất cả đều do chấp ngã mà ra, và nguyên nhân sâu xa là vì ta chưa thật sự rèn luyện tâm mình trong tình thương yêu, lòng từ bi và tuệ giác về tánh không. Cuối cùng, vì thiếu đi từ – bi – và trí mà dù cho ta đang thực hành Pháp nhưng lại càng chấp mê vào bản ngã và tiếp tục trầm luân trong  sinh tử luân hồi. Đây chính là điều mà chúng ta đang cầu nguyện lên Đức Quan Âm Tara trong đoạn kệ này.

Chúng ta tha thiết khẩn cầu lên Đức Quan Âm toàn bích, xin Ngài bảo hộ chúng con, đừng để chúng con bị mê lầm bởi tà kiến giáo điều, xin Ngài giải thoát chúng con khỏi hiểm họa ấy. Bởi Đức Tara, Ngài đã siêu vượt mọi trói buộc của luân hồi sinh tử và an trú viên mãn trong Niết-bàn. Bởi Ngài có năng lực gia trì và bảo hộ vô biên, chúng con thành tâm khấn nguyện Ngài hãy hộ trì và dẫn dắt chúng con thoát khỏi những hiểm họa này.

Đoạn kệ tiếp theo nói:

“Chứng ngộ được bản tâm là điều rất khó.
Có kẻ tuy chứng ngộ nhưng lại không thường xuyên an trú,
Để cho tâm lao xao chạy theo những vọng động thế gian.
Xin Đức Quan Âm Chánh Niệm hãy dẫn dắt họ.”

Chứng ngộ được bản tâm vốn vô cùng khó khăn. Vì sao lại khó đến vậy? Như đã nói, vì chúng ta vẫn còn mang theo vô số tập khí nghiệp lực và các dấu ấn nghiệp từ vô thủy. Chúng che mờ bản tánh chân thật của tâm, che mờ trạng thái Đại Thủ Ấn, là trạng thái tự nhiên, rỗng rang của tâm. Đó chính là tâm của mỗi chúng ta, nhưng ta không nhận ra.

Khi tâm còn bị che phủ bởi vọng tưởng và phiền não, dù bản tánh vốn rỗng rang, ta vẫn không thấy được. Muốn gột rửa những che chướng này không hề dễ dàng, vì ta đã huân tập những thói quen ấy từ vô thủy kiếp. Vì vậy, thật sự rất khó để xuyên qua, thấu qua từng lớp, từng lớp mê mờ ấy. Vô cùng khó.

Đó chính là lý do vì sao trước tiên ta phải tích lũy công đức, tịnh hóa che chướng qua việc tu tập nền tảng trước nhất. Mọi thực hành, học hỏi, thiền định, tất cả đều nhằm mục đích ấy mà thôi – trực ngộ bản tâm. Có người nghĩ rằng thiền định là dễ dàng, nhưng thật ra không phải vậy. Không dễ gì để ta có thể nhìn xuyên qua những lớp mê mờ ấy. Chúng ta phải xua đi những che chướng này bằng cách nào? Bằng cách tích luỹ công đức và tịnh hoá nghiệp chướng thông qua trưởng dưỡng tình yêu thương và lòng bi mẫn. Ta không thể trực tiếp, ngay lập tức chứng ngộ tánh không được. Nếu không có nền tảng vững chắc, không có công đức vô lượng thông qua thực hành thiện hạnh thì việc chứng ngộ tánh không chẳng phải là điều dễ dàng. Bởi chứng ngộ tánh không chính là cảnh giới của cái thấy (tuệ giác) tối thượng, viên mãn, thấu suốt tất cả các pháp và bản tánh chân thật của tất cả các pháp: Cái thấy ấy không chỉ thấy rõ sự tồn tại của tất cả pháp, mà còn thấu được bản chất rỗng rang, chân thật của chúng. Đây chính là sự toàn thiện và viên mãn tuyệt đối của tuệ giác tánh Không.

Ngay cả khi ta nhận được giáo huấn trực chỉ chân tâm từ một vị thầy, nếu không có nền tảng vững chắc, vẫn rất khó nhận ra được bản tâm tự tánh.

Giờ đây, ta đã có được thân người hiếm quý, đã gặp được giáo Pháp, gặp được những bậc thiện tri thức, những vị thầy xuất sắc. Chắc chắn nhiều người trong số các bạn đã được học hỏi, nhận giáo Pháp và được chỉ dạy từ nhiều vị thầy lớn. Tuy vậy, dù nghe nhiều, biết nhiều nhưng ta lại ít khi thực hành hoặc không duy trì đều đặn. Đa phần, ta bị cuốn trôi bởi các ý nghĩ và cảm xúc phiền não, nên rất khó nhận được bản tâm.

Bài kệ lại nói rằng “Có kẻ tuy chứng ngộ nhưng lại không thường xuyên an trú”. Dù có khi ta thấy được bản tâm, nhưng việc huân tập, duy trì lại vô cùng khó khăn.  Chẳng hạn, khi được một vị thầy trao cho giáo huấn tinh yếu, có thể có một khoảnh khắc ta thật sự thấy được tự tánh của tâm. Nhưng vì không duy trì [công phu], không liên tục thực hành miên mật nên cái thấy ấy dần phai mờ, tan biến. Như thế, từ khoá ở đây chính là “công phu huân tập”.

Ngay cả khi ta gặp được một vị thầy đầy oai lực, ta khởi lòng sùng mộ, tín tâm cực kỳ sâu sắc và được truyền dạy những chỉ dẫn thâm diệu. Lúc ấy ta có thể cảm nhận rõ rệt: “Đúng rồi, đây chính là tự tánh chân thật của bản tâm, ta đã thấy rồi!” Như vậy, thật sự các bạn đã thoáng trực ngộ được chân tâm. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là chúng ta phải trụ được trong bản tâm ấy nữa. Chỉ thấy thoáng qua mà không an trụ được thì rốt cuộc cũng không mang lại lợi ích lớn lao.

Vì vậy, phải vô cùng nỗ lực, bền bỉ công phu để duy trì cảnh giới ấy. Càng huân tập không gián đoạn, càng thực hành miên mật thì tỉnh giác sẽ càng sáng tỏ hơn. Tỉnh giác càng sáng tỏ thì sẽ đến một ngày, ta chứng ngộ bản tâm chân chánh.  

Ngược lại, nếu không kiên trì huân tập, không liên tục rèn luyện, thì như bản kệ nói, tâm ta lại sẽ “lao xao chạy theo những vọng động thế gian”.

Như thế nào là “để cho tâm lao xao chạy theo những vọng động thế gian”? Ví dụ khi bạn thực hành một việc thiện, nhưng chỉ thực hành bằng thân và miệng (khẩu), còn đầu óc (tâm) thì lại đặt ở nơi khác, lơ đãng, không chánh niệm. Như vậy thì tâm vẫn tiếp tục bị che mờ. Thậm chí, chính những thiện hạnh ấy đôi khi còn làm cho tâm càng bị ô nhiễm hơn.

Dĩ nhiên, ta vẫn cần thực hành thiện hạnh. Nhưng như Tổ Tilopa đã dạy Tổ Naropa rằng: “Khi hành thiền và an trụ trong bản tâm vô sinh, chớ tạo tác, dù là thiện hạnh của ba nẻo thân, khẩu, ý.” Vì nếu bỏ định để hành thân khẩu ý thiện, thì tánh giác vô niệm sẽ phai nhạt.

Ví như khi đang ngồi thiền, an trụ trong tỉnh giác, chợt ý nghĩ khởi lên: “Có lẽ ta nên lạy Phật hay cầu nguyện?” Đừng khởi niệm ấy, đây là ý nghĩa lời dạy của Tổ Naropa vì khi đã dụng tâm thì tâm ấy không còn trụ nơi tự tánh Không nữa. Trong lúc thiền quán tánh không; thân, khẩu, ý chớ tạo tác, dù là hành thiện. Hãy chỉ an trụ, hãy chỉ thiền.

Tuy nhiên, với những hành giả sơ cơ, ta vẫn phải thực hành các thiện hạnh của thân khẩu, ý bởi như đã nói, chúng ta vẫn còn tập khí phải tịnh hoá và phải tích lũy phước đức mới mong chứng ngộ được tánh không.

Về “vọng động thế gian”, đây chính là những thứ làm tâm ta xao lãng. Đời này, có vô số việc thế tục khiến ta phân tâm. Đối với hành giả, những việc thế tục hay “vọng động thế gian” là những gì ta làm vì cuộc đời này, những gì khiến ta mất đi tập trung, hay nói thẳng ra là những bất thiện hạnh. Kể cả khi đang thực hành giáo Pháp, ví dụ như hôm nay tuy ngồi đây tham dự khoá tu Tara thì tâm ta cũng rất mất tập trung vì mải bận tâm đến những công việc mình phải làm chẳng hạn. Đây được gọi là “để tâm lao xao theo những vọng động thế gian”. 

Tất cả những mưu cầu danh lợi, thành công, phú quý, những việc thiện lẫn bất thiện mà ta làm, tất cả những điều này đối với một hành giả đều chính là thất niệm. Ví như một học sinh đi học nhưng không chịu ở trong lớp học, mải mê ra ngoài chơi, hoặc không chú tâm nghe giảng thì cuối cùng sẽ chẳng hiểu gì và không vượt qua kỳ thi. Đó chính là “xao lao theo những vọng động thế gian” hay nói đơn giản hơn là chúng ta không có khả năng hướng tâm về thiện Pháp, không có khả năng thực hành thiện hạnh với tâm: Thân thì đang thực hành thiện hạnh nhưng tâm thì không hề an trụ nơi hạnh ấy mà bị phân tán khắp nơi. 

Gọi đó là bất thiện hạnh vì nó dẫn đến quả báo bất thiện – chính là khổ đau. Phần lớn những phân tán này đều do tham ái những gì của ta, sân hận những gì không phải của ta, vô minh, thất niệm mà ra cả. Chúng ngăn ta quay về với thiện hạnh. Vì thế, nếu cứ tiếp tục để cho tâm xao lãng thì dù có đang thực hành thiện pháp ta cũng không thật sự an trú nơi Pháp ấy. Vì bị phân tâm, ta phí hoài cơ hội tuyệt vời để thực hành Pháp, ta phí hoài thân người trân quý do chẳng tin sâu nhân quả, không chịu chuyên tâm thực hành mà làm gì cũng chỉ là hời hợt. 

Đa phần nguyên nhân là do các cảm xúc ô nhiễm của ta ví như sân giận, tham lam quá mạnh mẽ nhưng các cảm xúc phiền não vi tế cũng khiến ta xao nhãng [dễ dàng]. Ví dụ các bạn muốn ngồi thiền, hoặc đang trong kỳ nhập thất nhưng tâm không thể an trú. Dù không phải do những phiền não thô mạnh nhưng tâm vẫn bị cuốn đi bởi vô vàn ý nghĩ lao xao. 

Vì thế, ở đây chúng ta tha thiết cầu nguyện Đức Tara hộ trì, giúp ta không bị lôi cuốn, không bị chi phối bởi những phân tán đó, để tâm luôn tỉnh giác. Chúng ta khẩn nguyện Mẹ Hiền Quan Âm Chánh Niệm dẫn dắt ta, đừng bao giờ rời xa.

 

Đoạn kệ tiếp theo nói:

“Trí huệ vô phân biệt chính là bản tâm tự khởi.
Nhiều kẻ vì thói quen bám chấp đối đãi,
Bị trói buộc chẳng thể nào khác.
Xin Đức Quan Âm Bình Đẳng Trí hãy dẫn dắt họ.”

Bản tâm của chúng ta vốn là trí tuệ vô phân biệt, tự nhiên, không nhị nguyên (bất nhị). 

Trí tuệ bất nhị ấy, hay Pháp thân, hay bản tánh của tâm, hay trạng thái Tánh Không, dù gọi theo cách nào cũng vậy đều chính là tự tâm của mỗi người. Nhưng vì đã quen nhìn mọi thứ qua lăng kính nhị nguyên, ta không nhìn ra được tự tánh bất nhị ấy.

Sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) của ta không ngừng bị lôi kéo bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; từ đó hình thành [các khái niệm về] một chủ thể đang nhận thức và một đối tượng được nhận thức. Như thế, ta đã dựng lên một nhận thức nhị nguyên [phân biệt] “ta” và “người”. Chính điều này đã trói buộc chúng ta: ta bị trói chặt bởi những tập khí ràng buộc của nhận thức nhị nguyên ấy. Cuối cùng, tất cả những gì ta làm cũng đều là trói buộc bởi lẽ tất cả mọi nhận thức, mọi thể nghiệm của ta đều dưới góc độ nhị nguyên.  Ví dụ, chúng ta luôn mong cầu hạnh phúc, chúng ta tham ái, bám chấp và sợ hãi khổ đau, rồi khi khổ đau thực sự xảy đến, ta bị nhấn chìm, vì chấp ngã của ta quá sâu dày. Ta tin rằng những gì mình trải nghiệm là thật, dù là vui hay buồn. Vì sao ta tin? Vì ta nhìn vạn pháp bằng nhận thức nhị nguyên, cho rằng mọi thứ có thật, tồn tại độc lập, tách rời ta. Chính niềm tin [sai lầm] ấy khiến tâm ta bị trói buộc, không thể thoát ra. Ta nghĩ: “Tôi không muốn khổ, tôi phải thoát khổ”, nhưng cuối cùng ta vẫn không thể làm gì được, vẫn không thể ngăn [đau khổ] xảy ra. Dù cố gắng thế nào, chúng ta vẫn phải đối mặt với khổ đau.

Chúng ta khẩn nguyện Đức Tara gia trì để được như Ngài, vị Hộ Mẫu của tâm bất nhị, để đạt được giác ngộ trạng thái bất nhị như Ngài. Xin Ngài gia hộ để chứng ngộ sự thật rốt ráo, nhận ra bản tánh chân thật của chính mình.

Chỉ cầu xin Đức Tara gia trì thôi là chưa đủ, muốn nhận ra tự tánh, ta phải thực hành, phải thiền định. Đức Tara không phải một thực thể tách rời, mà chính là tâm bất nhị của ta, tuệ  giác của chính ta. Chỉ bằng thực hành và thiền định, ta mới dần buông bỏ nhận thức nhị nguyên về tự thân và vạn pháp, khi đó ta mới có thể thật sự hiểu được Tánh Không.

Khi an trụ trong trạng thái tánh Không, ta sẽ dần nhận ra mọi hiện tượng vốn không hề tách biệt, vốn bất nhị. Trong Lời Nguyện Đại Thủ Ấn, Đức Karmapa đời thứ 3 Rangjung Dorje đã có những giáo huấn tuyệt vời sau:

“Nhìn cảnh, cảnh không, thấy cảnh là tâm

Nhìn tâm, tâm không, vốn không tự tánh

Nhìn vào cả hai, nhị chấp tự thoát

Nguyện chứng diệu minh, chân tánh của tâm.”

 

“Nhìn cảnh, cảnh không” là thế nào? Ví dụ về những gì mắt thấy, tai nghe. Khi quán chiếu thật rõ hành giả sẽ nhận thấy rằng chúng dần mất đi tính thật, chắc. Với quán chiếu sâu sắc, dần dần ta sẽ nhận ra các đối tượng này không còn là một tồn tại cụ thể, cố định nữa. [Tiếp tục nhìn sâu đến tận cùng] ta sẽ thấy chúng không thật sự tồn tại. Chúng vẫn hiện diện nhưng khi nhìn thật sâu sắc, hành giả nhìn rõ ràng rằng chúng không hiện hữu [như một đối tượng cụ thể và cố định] theo cái cách như ta đang [lầm tưởng] nữa. Tương tự, nhận thức ta về của hương, vị, xúc, pháp cũng đều như thế. Vạn pháp chỉ là các phóng chiếu của tâm. Ta sẽ ngộ ra [chân lý này] khi quán chiếu sâu sắc. 

Nói như vậy không có nghĩa là ta phủ nhận các pháp, ví dụ ta không nói rằng ‘làm gì có cái nhà nào ở đây, làm gì có cao ốc nào ở đây!’ Điều ta đang đề cập đến là ‘căn nhà này tự thân nó vốn không hiện hữu’. Nó không tồn tại như những gì ta đang thấy. Nó xuất hiện trước mắt nhưng không [hiện hữu độc lập] như cách chúng ta đang nhìn nhận.  Điều này nghĩa là, một khi bạn nghĩ ngôi nhà này là [một thực thể] thật có – thì đây là một nhận thức sai lầm. 

Đức Kamarpa lại nói “Nhìn tâm, tâm không, vốn không tự tánh.” Khi nhìn thẳng vào bản tâm, ta sẽ thấy rằng không có gì thật sự tồn tại, chỉ có tinh tuý rỗng rang.  

Cuối cùng, “Khi nhìn vào cả hai, nhị chấp tự thoát” Cả hai ở đây có nghĩa là cả chủ thể và khách thể. Khi quán chiếu cả hai, vì không có chủ thể, cũng không có khách thể, hành giả [thoát chấp nhị nguyên và] chứng ngộ tánh Không của cả ta, người và pháp. 

Lời dạy của Đức Karmapa Rangjung Dorje hoàn toàn tương hợp với tinh thần của đoạn kệ thứ năm trong Bảy đoạn kệ khẩn nguyện Đức Quan Âm Tara bên trên.

 

Đoạn kệ tiếp theo nói:

“Cho dù có kẻ an trú trong chân nghĩa [Tánh Không]

Nhưng không thấu triệt được pháp duyên sinh của nhân quả.

Họ bị mê mờ không hiểu được đâu là điểm tựa cho tri giác.

Xin Đức Quan Âm Toàn Giác hãy dẫn dắt họ.”

Chúng ta nghĩ: ‘Tôi muốn làm thiện hạnh, muốn trở thành một hành giả chân chính.’ Nhưng thực sự, ta có làm được không? Ta muốn thấu triệt được luật nhân quả, nhưng luật ấy vi tế, sâu xa, tinh tế vô cùng. Sự vận hành của luật nhân quả là  cực kỳ phức tạp tinh vi. Vì vậy, ở đây chúng ta khẩn cầu Đức Tara, xin ban gia trì để con có thể hiểu trọn vẹn sự vi tế của nhân quả. 

Đức Tara là Đấng Toàn Giác vì tâm Ngài thấu suốt tất cả các pháp và bản chất của các pháp – đây là cảnh giới tâm toàn tri toàn giác – [vì thế ta cầu nguyện đến Ngài].  

Luật nhân quả chính là nền tảng trọng yếu của Phật giáo, là cốt lõi của tri kiến và thực hành. Là Phật tử, ta đều biết về nhân quả, hiểu nhân quả, nhưng thực sự ta có nhất nhất tuân theo nhân quả hay không? Đây mới là điều quan trọng.

Chấp nhận nhân quả thôi chưa đủ, ta phải tuân theo nhân quả nữa. Nhưng luật nhân quả là vi tế và phức tạp vô cùng. Nói một cách ngắn gọn, mọi hành động của ta [tạo ra bằng thân, khẩu, ý] dù là thiện hay bất thiện đều sẽ chín muồi. Không gì mất đi, không gì sai lệch. Dù chỉ một việc thiện rất nhỏ, bé xíu như hạt mè hoặc nhỏ hơn nữa, cũng sẽ trổ quả vào một thời điểm nào đó. Cũng vậy, một ác hạnh dù nhỏ tới đâu, cũng sẽ trổ thành quả. Cho dù cả trăm kiếp trôi qua, nhân quả vẫn không sai lệch, chắc chắn sẽ trổ thành kết quả tương ứng. Vì vậy, tất cả những gì ta làm bằng thân, khẩu, ý rồi một ngày sẽ kết quả. Chúng ta khẩn nguyện Đức Tara giúp ta thấu triệt được trọn vẹn sự thật này.

 

Đoạn cuối cùng của bài kệ: 

“Mặc dù sở hữu tự tánh tựa hư không và không do tạo tác,

mà vạn pháp vốn bất khả phân với tự tánh đó – bất khả phân với chân như.

Nhưng biết bao đệ tử vẫn không nhận ra.

Xin Phật Mẫu Toàn Giác hãy dẫn dắt họ.”

Tự tánh tựa hư không là bản tâm ta – tâm ấy rỗng rang, là tánh giác uyên nguyên bất nhị. Tất cả chúng sinh, bản thân ta và mọi loài khác, đều có bản tánh tâm này, nhưng vì chưa nhận ra, chúng ta cứ tiếp tục lang thang trong luân hồi, trải nghiệm khổ đau triền miên. Khi nào ta chưa chứng ngộ được bản tánh tựa hư không và không do tạo tác, khi ấy ta vẫn phải chịu phiền não, khổ đau.  Vì vậy, ta khẩn cầu Đức Tara, Đấng Phật Mẫu Toàn Giác, xin hãy dẫn dắt cho những ai chưa thấy được bản tánh này và bảo hộ họ cho đến khi chứng ngộ, cho đến khi đạt hạnh phúc tạm thời và giác ngộ rốt ráo viên mãn.

Trên đây là những lời bình giảng ngắn gọn về 7 đoạn kệ do chúng ta không đủ thời gian. Thầy xin kết thúc ở đây, cảm ơn tất cả các bạn, cầu chúc tất cả một năm mới an lành, viên mãn và tràn đầy gia trì của Đức Quan Âm Tara.

 

Nương nhờ công đức này, nguyện chúng con nhanh chóng thành tựu quả vị của Đức Quan Âm Tara, và nguyện chúng con đưa tất cả chúng sinh không sót một ai đến cùng quả vị ấy.

————-

Nguồn: Pháp hội White Tara lần thứ 19 tổ chức tại Singapore

Drigar Thubten Dargye Ling

DAC biên tập

đóng góp cho DAC

Các trung tâm Pháp thật vô cùng trân quý và trung tâm có thể hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào sự ủng hộ của các vị đệ tử. Mặc dù chúng ta đã thành lập trung tâm nhưng nếu không có được sự ủng hộ của tăng đoàn thì trung tâm sẽ không thể tồn tại trong tương lai. Nếu con ủng hộ cho các trung tâm Pháp thì con sẽ nhận được phước báu lớn lao trong đời này và cả đời vị lai. Và phước báu là cội nguồn của hạnh phúc.


Kyabje Garchen Rinpoche

đọc thêm