Thực hành Tara là một thực hành vô cùng quan trọng. Nhìn chung, tất cả các thực hành Pháp đều quan trọng cả nhưng hơn hết, thực hành Tara có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong việc đẩy lùi mọi bất hạnh mà thế giới đang trải qua như bệnh tật, chiến tranh và bạo lực vân vân. Trong những thời điểm như thế, thực hành Tara trở nên cực kỳ quan trọng. Đấy là bởi vì chúng ta ai cũng mong muốn có được hạnh phúc và để có được hạnh phúc ta phải gieo trồng thiện hạnh. Đó là vì sao ta lại nương tựa vào gia lực của Tam Bảo, đó là lý do vì sao chúng ta phải thực hành.
Đức Độ Mẫu Tara là hiện thân của các công hạnh giác ngộ của Bổn tôn. Trong lúc thực hành, hãy phát khởi lòng tín tâm và sùng mộ mãnh liệt đến Đức Tara, quán tưởng ta chính là Đức Tara và trì tụng câu minh chú của Ngài. Trên hết, hãy thiền định về tình yêu thương của Đức Tara. Khi chúng ta thực hành, điều quan trọng nhất là ta phải thật sự nhất tâm thực hành với tất cả tấm lòng sùng mộ. Thực hành này có năng lực tịnh hoá mọi hoàn cảnh bất lợi, mọi chướng ngại và đồng thời là suối nguồn gia trì không bao giờ ngừng dứt trong dòng tâm thức của chúng sinh. Thực hành như thế sẽ tăng trưởng công đức của hành giả. Điều này sẽ giúp ích cho việc tình hóa những bất lợi của cõi giới này, ví như nạn đói, dịch bệnh, chiến tranh, v.v. Bởi vì tất cả những bất lợi và những hoàn cảnh ô nhiễm này khởi lên là bởi vì các nhân của bất thiện hạnh. Thông qua việc dấn thân vào thực hành sẽ giúp cho chúng ta vượt qua được những bất lợi này. Đây là điểm vô cùng quan trọng chúng ta cần phải lưu ý. Vì thế, trong thời cộng tu này, chúng ta phải hiểu được rằng đây là một cơ hội vô cùng quý báu để chúng ta có thể ngồi lại với nhau ở đây và cùng nhau thực hành.
Có đôi khi chúng ta nghĩ rằng mình đã thực hành rất nhiều pháp tu khác nhau, là một hành giả tốt, nhưng vì sao vẫn gặp quá nhiều chướng ngại và phiền não? Vì sao lại như vậy? Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về nghiệp quả – vốn là những hành động ta đã làm – thì sẽ nhận ra rằng mình đã tích lũy rất nhiều nghiệp chướng trong quá khứ, và thậm chí ngay trong đời này cũng đã tích luỹ không ít nghiệp. Đó là lý do vì sao hôm nay chúng ta cùng nhau hội tụ để thực hành.
Trong hai ngày thực hành này, dù có thể chúng ta sẽ nỗ lực hết mình và thực hành rất tinh tấn, nhưng sau khi rời khỏi khoá tu, rất nhiều niệm tưởng tiêu cực sẽ lại khởi phát trong tâm. Đây chính là cách mà chúng ta đã không ngừng tích lũy nghiệp chướng qua thân, khẩu và ý trong từng khoảnh khắc. Khi so sánh thời gian ta dành cho thực hành giáo pháp với thời gian tạo tác các hành vi bất thiện và nuôi dưỡng niệm tưởng tiêu cực, ta sẽ thấy phần dành cho thực hành thật sự rất ít ỏi. Ở đây, thầy không nói đến những hành động độc ác như sát hại hay làm tổn thương người khác, mà ngay trong tâm thức của chúng ta cũng thường xuyên hiện diện những niệm tưởng tiêu cực như bám chấp, tham lam, giận dữ, cạnh tranh, đố kỵ, v.v. Chúng ta liên tục tích lũy những niệm tưởng như vậy trong tâm, và vì thế, nhân của khổ đau luôn kề cận với chúng ta. Khi nhân khổ đau hiện diện, thì quả khổ đau nhất định sẽ trổ sinh.
Do đó, chúng ta cần phải thực hành không chỉ trong một hai ngày, mà phải luôn nỗ lực không ngừng với tất cả thân, khẩu và ý. Garchen Rinpoche đã luôn dạy chúng ta phải thực hành Tara, phải trì tụng minh chú Tara. Ngài có lý do để nhấn mạnh điều đó, bởi mọi khó khăn, chướng ngại và vấn đề mà ta gặp phải đều bắt nguồn từ nghiệp bất thiện và các tập khí đã in hằn sâu trong tâm thức.
Thông qua thực hành Tara, chúng ta có thể thanh tịnh hóa những nghiệp tưởng ấy. Lý tưởng nhất, ta nên thực hành với trọn vẹn sự xác tín rằng bản thân chính là vị Bổn Tôn. Nếu chưa thể như vậy, ít nhất hãy nuôi dưỡng lòng sùng mộ và tri kiến thanh tịnh đối với Tara, đồng thời khởi phát lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Hãy thực hành với tất cả khả năng mình có thể. Nếu làm được như vậy, ta có thể chặn đứng được dòng tích lũy vô tận của nghiệp tưởng trong quá khứ. Khi nhân khổ đau được thanh tịnh hóa, thì các lỗi lầm, chướng ngại và vấn đề cũng sẽ theo đó mà tiêu tan. Đó là lý do vì sao chúng ta cần thực hành không ngừng nghỉ.
Hôm nay, chúng ta sẽ học về Bảy đoạn kệ khẩn nguyện Đức Tara. Bài cầu nguyện này chứa đựng ân phước gia trì lớn lao và những giáo huấn hết sức trọng yếu. Dĩ nhiên, Thầy không thể giải thích bài kệ một cách toàn hảo, nhưng Thầy sẽ cố gắng chia sẻ những điều mình hiểu, để các bạn có thể tiếp tục tìm hiểu sâu hơn. Có thể qua đây, các bạn sẽ tìm thấy cảm hứng và dấn thân vào thực hành, đó là lý do Thầy muốn chia sẻ bài kệ này hôm nay.
Vậy ai là người trước tác Bảy đoạn kệ khẩn nguyện Đức Tara? Đó là Sơ Tổ Jigten Sumgon trong thời gian nhập thất tại động Echung. Khi ấy, Ngài đã trực tiếp diện kiến Đức Tara, và lời cầu nguyện này là những lời Ngài khẩn cầu bật thốt ra trong lúc đó. Vì thế bài cầu nguyện này có liên hệ trực tiếp với giáo lý Đại Thủ Ấn Mahāmudrā.
Nói chung, tất cả các Pháp đều bao hàm trong hai chân lý: chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Bài cầu nguyện này chủ yếu bàn về chân lý tuyệt đối, vì được khởi phát khi Tổ Jigten Sumgon chứng ngộ bản tâm và an trụ trong trạng thái tâm Đại Thủ Ấn. Do đó, bài nguyện này có sự liên kết chặt chẽ với pháp luyện tâm.
Bài kệ mở đầu bằng:
Trong pháp giới vô sinh,
Có Phật Mẫu Quan Âm tôn quý, vi diệu, ngự trị.
Ngài ban hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sinh
Xin ngài che chở độ trì cho tất cả chúng sinh thoát khỏi mọi hiểm hoạ.
Trong nguyên văn tiếng Tạng, bài kệ bắt đầu bằng chủng tử âm “Ma”, nghĩa là “Mẹ” – biểu trưng cho tình yêu thương vô lượng mà người mẹ dành cho tất cả chúng sinh. Tình yêu thương của người “Mẹ” dành cho đứa con thật sự là lòng từ ái vô biên vô tận. Chủng tự Ma vì thế là biểu tượng của tình yêu vô lượng của đấng mẹ hiền dành cho tất cả chúng sinh. Người đã xuất hiện với thân tướng bình phàm này để cứu độ chúng sinh. Người cũng chính là mẹ của ta – người đã trao cho ta hình hài và sự sống. Vì vậy, Mẹ là người vô cùng từ ái và tràn đầy phẩm hạnh. Đây là một cách chúng ta hiểu về “[Phật Mẫu] Mẹ”.
Dưới góc độ tương đối, đến cùng thì Mẹ – [hay “Đức Phật Mẫu”] là cội nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp và mọi hoạt hiện trong cõi giới này. “Pháp giới vô sinh” là cảnh giới tối hậu, nơi không còn tạo tác, sinh khởi hay đoạn diệt – một cảnh giới chỉ hiển lộ khi ta chứng ngộ chân lý rốt ráo. Trước khi đạt được cảnh giới ấy, chúng sinh vẫn trầm luân trong luân hồi sinh tử. Nhưng khi đã chứng ngộ được chân lý tối hậu, ta sẽ vượt thoát vòng sinh, trụ, [hoại], diệt. Cảnh giới siêu vượt đó được gọi là cảnh giới tối hậu hay Dharmadhātu – Pháp giới – nơi Đức Tara tôn quý an trụ. Ai đang an trú trong cảnh giới ấy? Ấy chính là mẹ hiền Jetsun Lhamo Drolma – Phật Mẫu Tara an trú trong Pháp giới vô sinh. Đây là cách thầy hiểu hai câu kệ trên, thầy nghĩ chúng ta nên quán chiếu như vậy khi tụng đọc hai câu kệ trên.
Cảnh giới vô sinh tối hậu ấy – Pháp giới vô sinh -, chính là bản tâm của mỗi chúng ta. Tâm ta là vô sinh nhưng ta không nhận ra được chân lý ấy. Đấy là lý do vì sao ta cứ mãi chạy theo những niệm tưởng mê lầm. Đó là lý do vì sao ta gặp phải muôn vàn đau khổ, sợ hãi và những niệm tưởng mê lầm. Tất cả những chướng ngại này đều đến từ tâm chấp ngã.
Khi khẩn cầu đến Đức Tara điều gì sẽ xảy ra? Câu kệ tiếp theo nói rằng “Ngài ban hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sinh”. Khi thực hành Tara với lòng sùng mộ lớn lao, ít nhất chúng ta sẽ có thể ít nhiều hiểu về bản tâm. Chính cái thoáng thấy đó sẽ phần nào làm giảm thiểu sự bám chấp, sợ hãi, giận dữ và sân hận – từ đó sinh khởi hạnh phúc và an lạc. Đó là điều xảy ra khi ta bắt đầu trực nhận bản tâm. Đây là cách mà thầy quán chiếu về những câu kệ này.
Vậy pháp giới vô sinh ở đâu? Cảnh giới ấy chính là bản tâm ta. Vậy Tara là gì? Ngài chính bản tâm tựa hư không, là tuệ giác và từ bi của chính tâm ta. Ngài thực sự chính là tánh biết của bản tâm. Bởi vậy, khi thực hành Tara sẽ đem đến cho hành giả hạnh phúc và an lạc. Nhờ đó, các niệm tưởng tiêu cực, bám chấp, vô minh, sợ hãi và đau khổ sẽ dần tiêu tan. Đó là cách Tara ban an lạc cho tất cả chúng sinh.
Như thế, quán tưởng bản thân trong hình tướng của Bổn tôn, trì tụng câu minh chú và nhất tâm thực hành – an trụ trong định của thiền. Thông qua thực hành như vậy, thân của chúng ta sẽ hòa vào với thân giác ngộ của Bổn tôn Tara, khẩu của chúng ta sẽ hòa với khẩu của Đức Tara, và tâm của chúng ta – tâm xác tín, lòng sùng mộ và tri kiến thanh tịnh – sẽ hoàn toàn tan nhập bất khả phân với tâm của Đức Tara. Và như vậy, những bám chấp về cái tôi trong ta sẽ dần giảm thiểu. Đây là cách mà Thầy tin rằng chúng ta cần phải thực hành.
Một cách khác để hiểu về câu kệ này, đặc biệt đối với những chúng sinh thường phàm và những hành giả mới bắt đầu như chúng ta, đó là hiểu dưới góc độ của chân lý tương đối. Chúng ta vừa rồi đã được học về câu kệ dưới góc độ của chân lý tuyệt đối, chính là bản tánh bao la. Nhưng thông thường, đối với hành giả mới, thật điều này rất khó hiểu bởi vì chúng ta không thực sự hiểu rõ về bản tánh của Đại Ấn và Pháp giới rỗng rang, v.v. Như vậy, một cách khác để chúng ta có thể hiểu về Pháp giới vô sinh của Đức Tara, chính là xem đấy như cõi tịnh độ của Đức Tara vậy. Đây là cách mà những người bình thường như chúng ta có thể hiểu về câu kệ này.
Điều gì khiến cho chúng ta trở thành chúng sinh bình phàm, đó là bởi vì chúng ta muốn được thoát khỏi đau khổ và muốn được hạnh phúc. Chúng ta có sự bám chấp vào cái ngã, chúng ta có hy vọng và sợ hãi, chúng ta muốn có được lực gia trì và hy vọng rằng một vị Bổn tôn hoặc một Đấng cứu độ nào đó, với công hạnh giác ngộ của các vị, sẽ giúp cho chúng ta thoả mọi mong cầu. Lúc nào chúng ta cũng có những mong ước như thế ở trong tâm. Như thế, đối với những chúng sinh bình phàm thì tốt hơn chúng ta có thể nhìn nhận Pháp giới Đa-ma-đa-tu là cõi tịnh độ của Đức Tara. Vậy ai là người an trụ trong cõi Tịnh độ ấy? Đó chính là Đức Tara – hiện thân của tất cả các công hạnh giác ngộ của Chư Phật. Với nhận thức như thế, ta khấn nguyện Ngài với tất cả lòng sùng mộ. Ví dụ khi chúng ta thực hành thì hãy khẩn cầu đến Ngài và nghĩ rằng: “Nguyện cho con được giải phóng khỏi mọi khổ đau, nguyện cho con đón nhận gia lực của Ngài và nguyện cho con hoàn toàn vượt thoát khỏi mọi mê lầm.” Nếu như chúng ta khẩn cầu Ngài như thế và thực hành với trọn vẹn lòng tính tâm và sùng mộ, vậy thực hành ấy thật tuyệt vời.
Điều này là cực kỳ quan trọng bởi vì gia lực của Chư Phật luôn luôn hiện hữu. Các Ngài luôn luôn hiện diện xung quanh chúng ta, luôn luôn dõi nhìn theo ta với tình yêu thương. Nhưng chúng ta chỉ có thể đón nhận gia lực của các Ngài nếu như chúng ta hoàn tất nghĩa vụ của mình, đó chính là thực hành với tất cả lòng sùng mộ. Bởi vì vạn sự là tương duyên, tương hỗ. Chỉ có Đức Phật mong muốn đem lại cho chúng ta hạnh phúc và gia lực thôi là chưa đủ, chúng ta cũng phải có trách nhiệm của mình nữa, đó chính là thực hành với tất cả lòng sùng mộ. Như thế một cách tự nhiên ta sẽ nhận được gia lực của các Ngài, vì vậy trách nhiệm của chúng ta là phải khấn nguyện.
Dưới góc độ của chân lý tuyệt đối, Đức Tara chính là hoá hiện của tánh không và lòng từ bi. Trong 37 Pháp Tu Bồ Tát có nói rằng “các Ngài đã chứng mộ được vạn pháp là không đến không đi”. Vạn pháp thực sự chẳng đến cũng chẳng đi, về mặt tối hậu là bất lai bất khứ. Và vì vậy các vị Bổn tôn sẽ luôn luôn trụ nơi Pháp giới chứ không rời gót đi đâu cả, nhưng dưới góc độ của chân lý tương đối thì có đến và có đi. Vì vậy các vị Bổn tôn sẽ luôn luôn hóa hiện để đem lại lợi lạc cho chúng sinh bình phàm với tất cả tình yêu thương. Đây là cái nhìn dưới góc độ của chân lý tương đối. Bởi vì Ngài luôn luôn hiện hữu, Ngài sẽ luôn luôn hóa hiện ra trước chúng ta, ta sẽ luôn luôn đón nhận được gia lực của Ngài và như thế mọi bệnh tật, chướng ngại và rất nhiều những hoàn cảnh bất lợi khác đều sẽ được tịnh hoá.
Trong những bài nguyện khác nhau về Tara đều nói đến năng lực ban cho hành giả những gì mong cầu. Ví dụ, nếu các bạn muốn con trai, Ngài sẽ ban cho các bạn con trai. Muốn con gái, được con gái. Muốn giàu sang, phú quý, sẽ có giàu sang, phú quý. Bạn sẽ nhận được tất cả những gì mình mong cầu từ Tara. Nhưng trách nhiệm của bạn là phải khởi phát lên một lòng sùng mộ, một niềm xác, tín tâm với đức Tara. Nếu như ta thực hành như thế, thì Ngài có năng lực ban cho bạn tất cả mong cầu và thành tựu. Nhưng ở đây điều quan trọng là chúng ta phải khởi phát được lòng tín tâm và sùng mộ [chân chính]. Lúc nào chúng ta cũng nói về việc mong cầu nhận được sự bảo hộ trong cuộc đời này, trong cuộc đời vị lai và trong các cõi trung ấm. Đây là ba giai đoạn mà chúng ta thường nhắc đến trong một đời người. Với năng lực gia trì của đức Tara, chúng ta sẽ tìm được tất cả mọi điều đó: Hạnh phúc tạm thời trong cuộc đời này và tự do khỏi mọi sợ hãi và những nỗi đau khổ trong cuộc đời vị lai. Nếu như chúng ta thực hành thật tốt trong cuộc đời này, thì chúng ta sẽ hoàn toàn có thể đạt được gia lực tạm thời và tối hậu. Rốt ráo thì chúng ta sẽ hoàn toàn được giải thoát khỏi cõi luân hồi và sẽ đạt thành giác ngộ vẹn toàn.
Vậy trong cuộc đời này chúng ta có thể đạt được thành tựu [bình phàm] gì không? Hoàn toàn có thể, bởi vì Ngài chính là Đấng Bảo hộ khỏi mọi nỗi sợ hãi của cuộc đời này. Đã có rất nhiều câu chuyện về những vị thành tựu giả thực hành Tara trong cuộc đời và đã vượt qua được vô vàn chướng ngại lẫn khó khăn trong cuộc sống. Ví dụ có một câu chuyện về đức Atisha như sau: khi Ngài du hành xuyên đại dương thì bất ngờ gặp phải một cơn bão dữ. Khi tàu của Ngài chuẩn bị chìm xuống biển thì Ngài đã khẩn cầu đến đức Tara và đã hoàn toàn bình an vượt thoát khỏi cơn bão, đồng thời cũng lái được con tàu đi về hướng mà Ngài mong muốn. Đây chỉ là một câu chuyện thôi, nhưng còn rất nhiều những câu chuyện của những vị đạo sư khác, những vị đã thực hành Tara trong suốt cuộc đời và đã nhận được vô vàn gia lực lẫn lợi lạc, cũng như những thành tựu trong cuộc đời này. Lấy ví dụ, một trong những lợi lạc tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể có, đó chính là sự chứng ngộ và trải nghiệm của chúng ta về con đường thực hành sẽ ngày càng tăng tiến. Chúng ta sẽ dần dần tăng trưởng công phu tu hành của mình.
Dưới một góc độ nhỏ hơn, nếu như chúng ta chỉ thực hành để mong cầu một điều gì đó, hoặc để được giải thoát khỏi những vấn đề và chướng ngại nào đó, thì Đức Tara cũng hoàn toàn có đủ năng lực để trao cho chúng ta những điều như vậy. Ngài có năng lực để tịnh trừ mọi khó khăn, chướng ngại, hoặc xua tan đi bệnh tật. Ngài có thể đem lại thành công trong những công việc của chúng ta. Có rất nhiều câu chuyện như thế. Tuy nhiên, chúng ta cần phải thực hành Tara một cách thường xuyên và miên mật. Chúng ta không thể nào mong cầu chuyện này xảy ra một sớm một chiều được. Chúng ta không thể nào nghĩ rằng ngày hôm nay ta thực hành Tara thì ngày mai ta sẽ có được những thành tựu. Chuyện đó sẽ không thể nào xảy ra, chúng ta phải có một sự thực hành miên mật.
Khổ thứ 2 nói:
“Vì không hiểu rõ chính bản tâm là Pháp thân,
Ta bị bao phủ bởi bao phiền não.
Chúng sinh muôn loài, những bà mẹ của ta đang lang thang khắp nẻo luân hồi.
Xin Phật mẫu quan âm tôn quý hãy dẫn dắt họ.”
Trước hết, khi chúng ta đọc đoạn kệ này, chúng ta sẽ nghĩ rằng nó thật sự không quá khó hiểu. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của câu kệ. Nhưng nếu như chúng ta thật sự quán chiếu một cách kỹ lưỡng, ta sẽ thấy rằng đoạn kệ này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Tâm chính là Pháp Thân. Lúc nào chúng ta cũng nhắc đến câu trích dẫn: “Tất cả mọi chúng sinh đều là Phật. Chỉ là chúng sinh bị che chướng bởi những vết nhơ bất định tạm thời mà thôi.” Đây chính là ý nghĩa thật sự của đoạn kệ này: ta chính là Pháp Thân, nhưng ta không nhận ra được điều đó. Vì thế, ta tiếp tục lang thang trong luân hồi. Đây là điều cực kỳ quan trọng mà các bạn phải hiểu. Nếu như hiểu được rằng ta là Pháp Thân thì chúng ta sẽ được giải phóng khỏi luân hồi. Ở đây, chúng ta khẩn cầu đến Đức Tara rằng: “Hỡi Đức Tara, con là một người vô minh, không nhận ra được rằng con là Pháp Thân. Vì vậy, xin hãy ban cho con trí tuệ để chứng ngộ chân lý ấy.” Đây là cách mà chúng ta khẩn cầu đến với các vị Bổn Tôn.
Tại sao ta lại là Pháp Thân? Bản tâm chính là cảnh giới sáng rõ, thanh tịnh, nội tại tự nhiên của tâm này. Cảnh giới ấy chính là Pháp Thân, và đó mới chính là ta. Cảnh giới Pháp Thân này, từ vô thủy, đã luôn thanh tịnh và sáng rõ.
Trong một bài đạo ca khác có nói rằng: “Mặc dù chư Phật và chúng sinh dường như là những thực thể tách biệt, nhưng thật ra, tâm của Phật và tâm của chúng sinh là một.” Tâm của một vị Phật và tâm của một chúng sinh hoàn toàn là một và như nhau. Khi chúng ta nhận ra được điều ấy, thì chúng ta cũng sẽ nhận ra rằng tâm ta chính là Pháp Thân. Và đó cũng là lúc chúng ta hoàn toàn được giải phóng khỏi luân hồi. Nhưng bởi vì chúng ta chưa nhận ra được rằng tâm mình chính là Phật, nên chúng ta tiếp tục lang thang trong luân hồi.
Trong khổ đầu tiên của Bảo Châu Giải Thoát, Tổ Gampopa có nói rằng: “Nền tảng của luân hồi và Niết Bàn chính là rỗng rang.” Điều này có nghĩa là: luân hồi là rỗng rang, Niết Bàn cũng là rỗng rang. Nhưng vì chúng ta chưa nhận ra được điều đó, cho nên chúng ta khởi phát lên những niệm tưởng mê lầm – đây là cái mà chúng ta gọi là trầm luân trong luân hồi. Từ những niệm tưởng mê lầm đó, những đặc tính của mê lầm xuất hiện – và đây chính là phiền não. Niết Bàn là khi chúng ta nhận ra được bản tính của mê lầm. Và khi chúng ta nhận thức ra được điều ấy, thì tất cả mọi gốc rễ của đau khổ sẽ hoàn toàn tan biến.
Tâm ta thật sự chính là một vị Phật, nhưng ta chưa thể nhận ra được chân lý ấy. Đây là điều duy nhất đã diễn ra. Điều này có nghĩa là chẳng có cái gì đã bị mất đi [trong tiến trình ấy]. Cũng chẳng có gì đã bị phá hủy hay bị vấy bẩn. Bản tâm vẫn ở đó, vẫn thanh tịnh và luôn hiện hữu. Nhưng chỉ đơn thuần là chúng ta không thấy được bản tâm ấy mà thôi.
Trong bài cầu nguyện Tán Dương Pháp Tánh có nói rằng: “Cũng giống như tinh túy của nước ở trong lõi của trái đất, tinh túy của tâm vẫn luôn thanh tịnh nơi chính tâm này.”
Trái Đất được cấu thành bởi rất nhiều vật chất khác nhau, nhưng tinh túy của nước nằm trong lõi Trái Đất thì hoàn toàn không bị trộn lẫn bởi đất. Nó hoàn toàn thanh tịnh – và sẽ luôn thanh tịnh. Cũng như vậy, trong tâm ta có rất nhiều niệm tưởng và cảm xúc ô nhiễm, nhưng chúng chỉ che đi tánh giác nguyên sơ – trí tuệ của chúng ta, chứ không phá hủy hay làm ô nhiễm tánh giác ấy. Những cảm xúc tiêu cực chỉ che chắn – giống như những đám mây che đi bầu trời – nhưng bầu trời vẫn ở đó, và tánh giác nguyên sơ vẫn luôn hiện hữu.
Điều này xảy ra bởi vì chúng ta có lục căn lục thức. Chúng ta nhìn mọi thứ bằng nhãn căn (mắt), nghe bằng nhĩ căn (tai)… Và tất cả những gì chúng ta tiếp nhận đều mang tính nhị nguyên: có chủ thể và đối tượng. Nhận thức này tin vào sự hiện hữu nhị nguyên, và vì có sự chia cách đó, chúng ta tích lũy nghiệp chướng.Mặc dù chúng ta tích tập nghiệp nhưng thức này vẫn luôn như vậy, chỉ là nó đã bị che chướng bởi rất nhiều lớp tập khí. Những lớp tập khí này quá sâu dày đến độ chúng ta không thể nhìn xuyên qua để thấy được bản tâm chân thật của mình. Giống như mặt trời bị che bởi vô vàn tầng mây đen, nhưng thật ra mặt trời vẫn luôn ở đó – nó chỉ bị che mà thôi. Khi mây tan, mặt trời lại hiện lộ như vốn có. Cũng như vậy, bản tâm thanh tịnh của chúng ta vẫn luôn hiện hữu, nhưng tạm thời bị che chướng bởi tầng tầng lớp lớp tập khí và nghiệp. Vì vậy, chúng ta không thể thấy được bản tâm. Nhưng nếu hiểu được điều này, nếu nhận thức được rằng bản tâm vẫn luôn hiện hữu, thì sự nhận thức ấy ít nhiều sẽ khiến chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn, hạnh phúc và an bình hơn. Nếu không nhận thức được như thế, với cái tâm đầy che chướng này, chúng ta sẽ tiếp tục trôi lăn trong luân hồi bởi chúng ta sẽ tiếp tục chạy theo nghiệp và tập khí. Kết quả là chúng ta sẽ lại [củng cố thêm] cho nhận thức nhị nguyên, và cứ như vậy ta lại tiếp tục đuổi theo nhận thức nhị nguyên ấy.
Trong một lời khẩn nguyện do Đức Jamgön Kongtrul Rinpoche trước tác, có nói: “Niệm tưởng của con là Pháp Thân, nhưng con không nhận ra chân lý ấy.” Thật sự, các niệm tưởng là Pháp Thân, và chúng ta có thể chứng ngộ được điều này nếu thực hành thiền định trực chỉ bản tâm.
Nhìn chung, chúng ta có rất nhiều cảm xúc khác nhau: vui, buồn, tức giận… Nhưng những cảm xúc ấy là gì? Khi ta nhìn thẳng vào cảm xúc, chúng thật sự không hề tồn tại. Chúng có ở đó hay không? Khi ta nhìn thẳng [vào các cảm xúc], ta sẽ thấy rằng không có gì thật sự tồn tại cả. Vì vậy, khi ta thấy rằng không có gì thật sự tồn tại, thì sự bám chấp vào một thứ có thực cũng sẽ không còn nữa. Sự chứng ngộ được tìm thấy ngay khi ta ngừng tìm kiếm. Không có một niệm tưởng hay cảm xúc nào để tìm cả.
Đôi khi, chúng ta rơi vào trạng thái giận dữ. Thông thường, khi sân hận khởi lên, ta liền đồng hóa bản thân với cảm xúc đó—ta nói: “Tôi đang giận”, hay “Có một cơn giận dữ.” Chúng ta cho rằng thực sự có một thứ gì đó tồn tại, và thậm chí cảm nhận được nó một cách rất rõ ràng. Tuy nhiên, nếu ta nhìn thẳng vào bản chất của sự sân hận ấy, thì cơn sân hận đó ở đâu? Ta không tìm thấy nó ở đâu cả. Không có cái gì là giận dữ, bạn không thể tìm thấy nó. Khi không tìm thấy nó ở bất kỳ đâu, thì ngay khoảnh khắc ấy, mọi che chướng đều tan biến.
Sự che chướng vốn khởi lên từ niềm tin rằng có một điều gì đó đang thực sự hiện hữu. Nhưng bởi vì không thể tìm thấy bất kỳ thực thể nào, nên sự chấp trước vào hiện hữu ấy liền bị xuyên thủng. Điều này không chỉ đúng với sân hận mà còn tương tự đối với tất cả những vọng niệm, cảm xúc ô nhiễm, sự bám chấp, hay các khuynh hướng nhị nguyên khác khởi sinh trong tâm. Khi hành giả thực hành thiền định và quán chiếu trực tiếp vào các niệm tưởng, sẽ thấy rằng không có gì thực sự hiện hữu. Đây là một đề mục quan trọng cho thiền quán, là điều chúng ta phải khắc ghi —là điều mà chúng ta nương tựa để thực hành.
Đức Jamgön Kongtrul đã dạy: “Niệm tưởng vốn là Pháp thân, nhưng con không nhận ra điều ấy.” Chúng ta thường khởi lên đủ loại vọng tưởng, rồi lập tức gán nhãn cho chúng là tốt hay xấu. Khi một niệm tưởng được cho là “tốt”, ta hoan hỷ. Ngược lại, nếu là “xấu”, ta cảm thấy phiền muộn, khổ đau. Tất cả những đánh giá này chỉ là sự quy ước, những tạo tác của tâm. Trong cảnh giới của bản tâm, không có sự phân biệt tốt hay xấu. Tương tự như vậy, không hề có một “cơn giận” nào thực sự tồn tại nơi bản tâm. Dù ta tìm kiếm đến đâu, cũng không thể thấy được điều gì thật sự hiện hữu.
Do đó, khi an trụ trong thiền định, đây là cách mà hành giả sẽ thấy rằng Phật vốn tại tâm ta. “Niệm tưởng là Pháp thân nhưng con không nhận ra chân lý ấy. Tâm con vốn chính là Phật, nhưng con không nhận ra chân lý ấy.” Đây là lời dạy của Tổ Jamgon Khongtrul.
Tuy nhiên, lời dạy “niệm tưởng là Pháp thân” không có nghĩa rằng cơn giận chính là Pháp thân. Hiểu như vậy là sai lầm. Vậy ý nghĩa chân thật của lời dạy ấy là gì? Đó là: khi ta quan sát các niệm tưởng và nhận ra rằng chúng vốn không thực sự tồn tại, thì chính cái biết – tánh giác nhận thức rõ ràng được rằng không có điều gì thực sự hiện hữu ấy – chính là Pháp thân. Tánh biết ấy là bản tánh sáng suốt của tâm. Đây chính là ý nghĩa thực sự của câu “niệm tưởng là Pháp thân.” Khi đã hiểu được điều này một cách sâu sắc, ta sẽ không còn bị cuốn theo các vọng niệm khởi sinh nữa.
Trong bài Bảy đoạn kệ Khẩn nguyện Đức Tara cũng có nói rằng: “ta bị lôi cuốn theo lời lẽ tầm thường của thế gian”. Chúng ta luôn bị cuốn theo những mê lầm. Ta gọi đó là những niệm tưởng ô nhiễm hoặc mê lầm, nhưng thực chất, chúng chỉ là một. Đó chính là tâm tạo tác — những suy nghĩ méo mó, và từ những suy nghĩ méo mó ấy, vô số hình tướng ô nhiễm khác hoá hiện. Nó hoá hiện thành sự ích kỷ; nhận thức phân biệt giữa ta và người khởi lên thành các niệm tưởng tham luyến, sân hận, sợ hãi, kỳ vọng, hạnh phúc, tuyệt vọng, v.v., và muôn vàn hình thức khác. Tuy nhiên, tất cả những điều này chỉ là ô nhiễm; chỉ là những bám chấp phát sinh trong tâm. Những niệm tưởng ô nhiễm và méo mó ấy, một khi được nhận biết và quán chiếu đúng đắn, sẽ không còn khả năng lôi kéo và chi phối chúng ta nữa.
Thông thường, chính vì không nhận ra điều này mà chúng ta cứ mãi trôi lăn trong sáu cõi luân hồi, bởi chúng ta luôn bị lôi cuốn bởi lục căn và lục trần. Chúng ta đuổi theo chúng, để rồi hoàn toàn bị nhận chìm trong vô vàn nỗi sợ hãi và kỳ vọng, trong tham luyến và sân hận khởi lên từ các căn thức của chính mình. Đó là nguyên nhân khiến ta phải kinh nghiệm những nỗi khổ đau nơi ba cõi thấp, do đã tích lũy nghiệp và tự tạo nên những tầng lớp dày đặc của tập khí bám chấp trong tâm. Chính những dấu ấn nghiệp này đã khiến chúng ta tái sinh vào ba cõi thấp. Đó là lý do vì sao ta thực hành Tara. Con thực hành Tara vì con muốn trưởng dưỡng trí tuệ, tình yêu thương và lòng bi mẫn. Con muốn chứng ngộ rằng tâm con là Phật; con muốn thấy rõ rằng các niệm tưởng vốn là Pháp thân.
Cũng trong những lời khẩn nguyện của Tổ Jamgon Kongtrul có nói rằng: “Con đã không nhận ra được tự tánh nội tại của chính mình.” Tự tánh nội tại ấy vốn luôn hiện hữu — chỉ là vì vô minh che phủ nên chúng ta không nhận ra mà thôi. Tuy nhiên, nếu an trụ trong cảnh giới tự nhiên của tâm, thì ta sẽ có thể thấy được bản tánh ấy. Đó chính là sự giải thoát khỏi khổ đau của luân hồi.
Luân hồi chính là dòng tương tục của các tập khí, các dấu ấn nghiệp — chúng là những hạt giống đã được gieo nơi tâm thức, khiến cho cánh đồng luân hồi nảy nở thành vô số hình tướng khác nhau của hạnh phúc và khổ đau.
Vậy, chúng ta cần làm gì trước những tập khí nghiệp quả này?
Cách lý tưởng nhất là chứng ngộ được bản tâm qua thiền định, để có thể nhận chân ra bản tánh thực sự của chính mình. Hoặc, chúng ta thực hành quán tưởng vị bổn tôn, thấy chính mình trong thân tướng bất khả phân với Đức Tara. Hoặc, chúng ta an trụ trong cảnh giới của bản tâm — không tạo tác, không bị sao lãng, không bị điều động bởi bất kỳ cảm xúc ô nhiễm nào. Đơn thuần chỉ là an trụ trong sự thanh tịnh ấy. Đó chính là con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi.
Hiểu được điều này, lòng bi mẫn sẽ khởi lên. Ta sẽ cảm thấy thương xót cho tất cả chúng sinh vì chưa ngộ ra chân lý ấy nên vẫn mãi trầm luân trong sáu cõi. Và từ đó, ta khởi nguyện giải thoát họ khỏi khổ đau. Đây chính là lý do ta khẩn cầu đến Đức Tara:“Con đã nhận ra được chân lý ấy. Giờ đây, con xin dâng lời cầu nguyện đến Đức Tara với tất cả lòng sùng mộ, và hoan hỷ thực hành với tất cả hạnh phúc và niềm vui.”
Đây là điểm cốt yếu trong việc thực hành Pháp: ta cần thực sự tìm thấy niềm vui trong thực hành. Phải cảm nhận được sự hoan hỷ khi thực hành. Có một số người rất yêu thích việc thực hành. Họ thường đến các pháp hội, ví dụ như pháp hội Mani, để thực hành bởi vì việc thực hành mang lại cho họ sự an lạc và hạnh phúc. Đây là một dấu hiệu cho thấy họ đã phần nào hiểu được Pháp — vì chính sự thực hành khiến họ cảm thấy an vui. Đó là lý do họ luôn muốn tiếp tục thực hành. Nếu bạn luôn tinh tấn thực hành Pháp thì gia lực của vị bổn tôn sẽ thấm nhập vào trong tâm. Khi đó, tâm chấp ngã sẽ dần giảm thiểu. Và khi tâm chấp ngã giảm thiểu thì bạn sẽ trải nghiệm được hoan hỷ [trong thực hành].
Có một số người rất yêu thích việc thực hành Pháp, đó chính là điều mà ta gọi là ‘tập khí thiện lành’. Nói một cách đơn giản hơn, đó là những thói quen tốt. Chẳng hạn, chúng ta có thói quen thực hành quán tưởng các vị Bổn tôn, như Bổn tôn Tara. Chúng ta thường xuyên tưởng niệm đến Đức Tara, thường xuyên trì tụng và thiền quán về Ngài, từ đó dần dần hình thành một thói quen tích cực. Và khi đã hình thành thói quen ấy, chúng ta lại càng lúc càng muốn thực hành nhiều hơn nữa. Các thói quen thiện lành như vậy, nhờ được tiếp tục duy trì, sẽ càng lúc càng trở nên mạnh mẽ và kiên cố. Đó chính là sức mạnh của tập khí thiện lành.
Song song với đó, chúng ta cũng có những tập khí và thói quen bất thiện. Có người luôn khởi tâm nghĩ đến việc làm hại người khác, hoặc thường xuyên nói những lời thô lỗ, thiếu từ bi. Những điều họ nói, dù bằng cách này hay cách khác, đều gây tổn thương đến người xung quanh. Vì lợi ích của bản thân, vì để đạt được điều mình muốn mà họ sẵn sàng bỏ qua hạnh phúc của người khác. Và họ làm điều đó một cách hoàn toàn tự nhiên, như một phản ứng bản năng. Ví dụ như loài thú hoang dã — như hổ hoặc báo — chúng đi săn và ăn thịt các loài khác. Đó là bản năng sinh tồn của chúng, không cần đến suy nghĩ hay cân nhắc. Tương tự, có những người mà bản năng của họ là làm điều ác, làm tổn thương người khác. Ngược lại, cũng có những người luôn kính trọng và yêu thương tha nhân. Khi họ nói chuyện, lời nói của họ toát lên tình thương và lòng từ ái, khiến người nghe cảm thấy hạnh phúc và thậm chí được giúp đỡ. Đó là kết quả của những đời trước, khi họ đã huân tập thói quen thực hành giáo Pháp. Do vậy, trong đời này, các hành xử thiện lành ấy trở thành bản năng tự nhiên nơi họ.
Có những người, ngược lại, lúc nào cũng khởi tâm muốn gây hại. Dù không cố ý, thì những lời nói của họ cũng khiến người khác tổn thương. Một cách rất tự nhiên, mọi điều họ nói ra đều là bất thiện: những lời ghen tuông, đố kỵ, dối trá, lừa lọc. Thậm chí khi họ không nói gì, trong tâm họ vẫn ngập tràn những ý nghĩ tiêu cực. Lời nói chỉ là sự biểu lộ của các dòng tư tưởng trong nội tâm. Đấy cũng chính là một thói quen.
Cũng như vậy, khi các bạn thực hành Bổn tôn [đều đặn], việc ấy dần dần trở thành một thói quen. Khi một hành động trở thành thói quen, chúng ta sẽ cảm thấy yêu thích và dễ dàng duy trì nó. Khi một thói quen trở nên mạnh mẽ hơn thì niềm vui khi thực hiện hành động ấy cũng sẽ sẽ tăng trưởng, bởi vì việc ấy trở nên dễ dàng và tự nhiên đối với ta. Tự nhiên chúng ta muốn đối xử từ ái với người khác, bởi vì như thế cũng sẽ làm ta cảm thấy vui vẻ. Đây chính là kết quả của việc huân tập một thói quen thiện lành. Khi các thói quen thiện lành được nuôi dưỡng, thì sự bám chấp vào luân hồi sẽ dần dần giảm thiểu. Cần hiểu rằng, mọi thói quen — dù thiện hay bất thiện — đều [vận hành theo một nguyên lý] như nhau.
Chúng ta hãy quay trở lại với câu kệ: “Tâm của con là Phật, nhưng con không nhận ra được chân lý ấy. Niệm tưởng của con là Pháp thân, nhưng con không nhận ra được chân lý ấy.”
Lý do mà chúng ta không nhận ra chân lý đó, cũng bởi vì chúng ta đã không huân tập thói quen nhận biết ấy. Chúng ta không nhận ra, bởi các niệm tưởng tiêu cực trong tâm quá mạnh, mạnh hơn [cả tánh giác]. Đó là lý do vì sao chúng ta không thể thấy được chân lý, không thể nhận ra được niệm tưởng vốn là Pháp thân.
Chúng ta thường nói rằng vạn pháp trong luân hồi đều khởi sinh từ nghiệp quả. Vậy nghiệp quả được tích lũy như thế nào? Thực chất, nghiệp được tích lũy trong chính tâm thức ta. Khi nói đến việc tích lũy nghiệp, điều chúng ta thực sự tích lũy chính là các thói quen, hay còn gọi là tập khí. [Trong tâm ta có] một dòng tương tục của các tập khí được hình thành và liên tục được củng cố qua các hành động. Những hành động ta đã từng thực hiện nhiều lần trong các đời quá khứ, dù là thiện hay bất thiện, đều sẽ tạo nên một xu hướng khiến ta muốn lặp lại chúng trong tương lai.
Lấy ví dụ, nếu một chúng sinh đã lang thang vô lượng kiếp trong các cõi thấp, thì ngay cả khi đã được giải thoát khỏi cõi ấy và tái sinh làm người thì [chúng sinh ấy vẫn phải chịu] các nghiệp báo tương ứng với cái nhân. Tức là, họ vẫn sẽ phải trải nghiệm những quả báo tương ứng với các thói quen đã huân tập vẫn đang không ngừng trổ quả. Bởi vì các tập khí vẫn còn đó nên bạn sẽ phải chịu những trải nghiệm tương tự, [ta gọi đây là quả báo trải nghiệm tương ứng với nhân], và bạn sẽ tiếp tục làm những hành động quen thuộc. [Ta gọi đây là quả báo hành động tương ứng với nhân]
Lại lấy một ví dụ: nếu một người đã quen làm điều xấu, thì người ấy sẽ dễ dàng lập lại hành vi đó hết lần này qua lần khác, thậm chí còn khởi tâm ưa thích việc làm ấy. Đó chính là “dòng tương tục của tập khí nghiệp” mà chúng ta mang theo. Vì vậy, việc chủ động gieo trồng và củng cố các tập khí thiện lành là điều tối quan trọng. Bởi những tập khí thiện lành này sẽ trở thành hạt giống cho một chuỗi [các hành động và trải nghiệm thiện lành] sẽ đồng hành với ta trong các đời vị lai. Nếu không đặt dấu chấm hết cho dòng tương tục của các tập khí bất thiện nơi tâm, thì cũng không thể chấm dứt được dòng tương tục của luân hồi. Bởi vì [luân hồi] chỉ là như thế mà thôi – một dòng tương tục của tập khí không ngừng hoạt hiện.
Ví như nếu còn giữ lửa trên bếp lò, thì dù có xua bao nhiêu lần đi nữa, khói vẫn tiếp tục bốc lên. Cũng như vậy, chỉ cần bất thiện hạnh vẫn còn đó thì khổ đau cũng sẽ còn đó, đó là một dòng tương tục của phiền não, của tập khí tự nhiên, của một thôi thúc muốn làm việc xấu. Vì lẽ đó, điều cốt yếu là ta phải chặn đứng dòng niệm tưởng bất thiện, đoạn trừ các thói quen xấu và thay vào đó là huân tập các tập khí thiện lành một cách liên tục và bền bỉ. Đây chính là điểm mấu chốt.
Kết thúc Pháp thoại ngày 1.
Nguồn:
Pháp hội White Tara lần thứ 19 tổ chức tại Singapore
DAC biên dịch

