Lịch Sử Truyền Thừa Drikung Kagyu – Dòng Truyền Thừa Hoàng Kim

Lịch sử của các vị Tổ Sư khai sáng Truyền Thừa Drikung Kagyu - Dòng truyền thừa hoàng kim

TRUYỀN THỪA DRIKUNG KAGYU

Drikung Kagyu Logo
Logo của dòng truyền thừa Drikung Kagyu.

Truyền thừa Drikung Kagyu là một trong những dòng truyền thừa Kagyu được thành lập cách đây hơn 800 năm bởi bậc thầy tâm linh vĩ đại, Kyoba Jigten Sumgon (Skt: Ratna Shri). Dòng truyền thừa Kagyu nhấn mạnh tính liên tục của những lời khẩu truyền được truyền từ đạo sư sang đệ tử. Điều này được phản ánh trong nghĩa đen của từ “Kagyu.” Âm tiết đầu tiên “Ka” dùng để chỉ kinh điển của Đức Phật và những lời chỉ dạy từ kim khẩu của vị Đạo Sư. “Ka” vừa có nghĩa là ý nghĩa giác ngộ được truyền đạt thông qua lời của vị đạo sư, vừa là sức mạnh của những từ ngữ trí tuệ này. Âm tiết thứ hai “gyu” có nghĩa là truyền thừa hoặc truyền thống. Kết hợp với nhau, danh từ này có nghĩa là “dòng truyền thừa của các chỉ dẫn khẩu truyền.”

ĐỨC PHẬT KIM CANG TRÌ VAJRADHARA

Đức Kim Cang Trì Vajradhara là vị Phật nguyên thủy, vị Phật Pháp thân. Đức Vajradhara được miêu tả là có màu xanh lam đậm, thể hiện bản chất tinh túy của Phật tánh. Đức Phật Vajradhara là biểu hiện về tinh tuý giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử.
Trong lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa đạt được giác ngộ dưới gốc cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng hơn 2500 năm trước và sau đó hoá hiện thành Đức Phật. Theo vũ trụ quan Phật giáo, ngài là vị Phật lịch sử thứ tư của thời hiền kiếp này. Thành tựu giác ngộ của Thái tử Siddhartha, sự chứng ngộ tự thân, được gọi là Pháp thân, là chân lý. Khi Ngài thể hiện sự giác ngộ đó qua những biểu tượng vi tế, lúc đó sự giác ngộ của Ngài được gọi là Báo thân, thân hỷ lạc. Khi sự chứng ngộ này được hoá hiện dưới hình tướng của Đức Thích Ca Mâu Ni lịch sử, một hoá hiện dễ tiếp cận hơn, hoặc ở dạng vật lý cho tất cả chúng sinh, thì được gọi là Ứng Hoá thân, là thân hoá hiện.
Pháp thân, đồng nghĩa với Đức Phật Vajradhara, là cội nguồn của mọi hoá hiện của sự giác ngộ. Đức Phật Vajradhara là tâm điểm của dòng truyền thừa Kagyu bởi Tổ Tilopa đã nhận giáo lý Kim Cương thừa trực tiếp từ Đức Vajradhara, vị Phật pháp thân. Do đó, dòng Kagyu bắt nguồn từ bản chất của Phật tánh.

TỔ TILOPA (988-1069)

Tổ Tilopa (tiếng Phạn: Talika) là một hành giả Mật thừa và là một đại thành tựu giả người Ấn Độ. Ngài đã khai lộ được chuỗi thực hành Đại Ấn, một tập hợp các pháp hành tâm linh góp phần đáng kể để thúc đẩy quá trình chứng quả bồ đề (đạt giác ngộ). Ngài được xem là vị Tổ Sư sáng lập dòng Kagyu của Phật giáo Tây Tạng và thực chất chính là Đức Phật Kim Cương Trì.
Tổ Tilopa sinh ra trong giai cấp tu sĩ bà la môn – một số nguồn nói rằng Ngài là dòng dõi hoàng gia – nhưng Ngài đã từ bỏ cuộc đời tu sĩ và trở thành một người lang thang sau khi nhận được linh kiến từ một vị Dakini. Ngay từ đầu,  vị Dakini đã nói rõ với Tổ Tilopa rằng cha mẹ thực sự của Ngài không phải là người đã nuôi nấng Ngài mà chính là trí tuệ nguyên thủy và tánh không đồng nhất. Theo lời vị Dakini, Tổ Tilopa dần dần đi tu, thọ giới Tỳ kheo, và trở thành một học giả uyên bác. Vị Đạo sư Dakini thường xuyên viếng thăm Ngài, tiếp tục dẫn dắt Ngài trên con đường tâm linh tiến dần hơn về nẻo giác.

Ngài bắt đầu đi khắp Ấn Độ để nhận những lời dạy từ nhiều đạo sư:

  • từ Đức Saryapa, Ngài đã học về tummo (nội nhiệt);
  • từ Đức Nargajuna, Ngài nhận được những giáo huấn về tịnh quang và thân huyễn ảo;
  • từ Đức Lawapa: các pháp du già mộng;
  • từ Đức Sukhasiddhi, những giáo lý về sự sống, cái chết và trung ấm bardo (cảnh giới giữa các trạng thái của sự sống và sự chuyển di thần thức);
  • từ Đức Indrabhuti, Ngài đã học về sự trí tuệ bát nhã (prajna);
  • và từ Đức Matangi, pháp hồi sinh xác chết.

Trong một lần thiền định, Ngài đã nhận được linh kiến ​​của Đức Phật Vajradhara và, theo truyền thuyết, đã trực tiếp thọ nhận toàn bộ [pháp hành] Đại Ấn. Sau khi nhận được trao truyền, Tổ Tilopa dấn thân vào cuộc đời lang bạt và bắt đầu thuyết giảng. Ngài đã sắc phong Tổ Naropa, môn đệ quan trọng nhất của mình, làm người kế nhiệm.

Sáu Điều Khuyên Dạy
Tổ Tilopa đã dạy cho Tổ Naropa về “Sáu Điều Khuyên Dạy”.
Bản gốc tiếng Phạn hoặc tiếng Bengali không có sẵn. Chúng tôi chỉ có được bản dịch tiếng Tây Tạng. Theo Ken McLeod, đoạn văn bản này chứa đúng 6 từ. Hai bản dịch tiếng Anh khác nhau được đưa ra dưới đây đều thuộc về Ken McLeod.
Sáu Điều Khuyên Dạy: (Bản dịch theo nghĩa đen ngắn đầu tiên / Bản dịch giải thích dài sau này / Bản phiên âm tiếng Tạng)

1. Đừng nhớ lại / Hãy buông bỏ những gì đã qua / mi mno
2. Đừng tưởng tượng / Hãy buông bỏ những gì có thể sẽ đến / mi bsam
3. Đừng suy nghĩ / Hãy buông bỏ những gì đang xảy ra lúc này / mi shes
4. Đừng kiểm tra / Đừng cố tìm hiểu bất cứ điều gì / mi dpyod
5. Đừng kiểm soát / Đừng cố làm cho bất kỳ điều gì diễn ra / mi sgom
6. Hãy buông thư / Thư giãn, ngay bây giờ, và buông thư / rang sar bzhag

Tổ Tilopa cũng đã chỉ dẫn cho Tổ Naropa về Đại Thủ Ấn Mahamudra:

Kẻ ngu trong sự vô minh, coi thường Đại Thủ Ấn, sẽ chẳng còn biết gì ngoài việc vật lộn giữa dòng sinh tử.
Hãy khởi lòng trắc ẩn cho những ai thường chịu cảnh lo âu!
Chán ngán nỗi đau đớn khôn nguôi và khát cầu giải thoát, hãy tuân theo một đấng đạo sư,
Vì khi gia lực của Ngài chạm đến trái tim con, tâm trí con sẽ được giải thoát.

TỔ NAROPA (1016-1100)

Tổ Naropa (Tiếng Phạn: Nadaprada) là một nhà sư và nhà huyền bí Phật giáo Ấn Độ, là đệ tử của Tổ Tilopa và là anh trai, hoặc một số nguồn nói là cộng sự của Đức Niguma. Tổ Naropa là vị thầy chính của Tổ Marpa.
Tổ Naropa là một phần của Chuỗi Hoàng Kim, có nghĩa là một vị Tổ nắm giữ dòng truyền thừa Kagyu của Phật giáo Tây Tạng, và được xem là một học giả thành tựu. Là một thiền sư vĩ đại,  được biết đến nhiều nhất vì đã liệt kê và phát triển Sáu Pháp Du Già của Naropa. Những thực hành này được thiết lập để giúp hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ.
Tổ Naropa xuất thân là một vị Bà la môn và ngay từ nhỏ đã bộc lộ tính cách độc lập, Ngài kỳ vọng sẽ theo nghiệp tu học và thiền định. Thuận theo ước nguyện của cha mẹ, Ngài đã đồng ý với hôn sự được mai mối với một cô gái trẻ Bà la môn. Sau 8 năm, cả hai đồng ý kết thúc cuộc hôn nhân và cùng xuất gia.
Năm 28 tuổi, Tổ Naropa vào Đại học Phật giáo nổi tiếng Nalanda, nơi Ngài tu học cả về Kinh thừa và Mật thừa. Ngài nổi tiếng là một học giả vĩ đại và một nhà hùng biên bất bại, điều cần thiết vào thời điểm đó vì truyền thống tranh luận là người thua tự động trở thành học trò của người chiến thắng. Cuối cùng Ngài đã trở thành Người gác cổng của phương Bắc; tham gia vào nhiều cuộc tranh luận, giảng dạy và thu nhận nhiều môn đồ.
Một ngày nọ khi đang học, một vị Dakini xuất hiện và hỏi rằng liệu Ngài có hiểu những từ đó không. Ngài trả lời rằng mình đã đọc và khi vị Dakini có vẻ rất vui với câu trả lời thì Ngài bèn nói thêm rằng Ngài cũng hiểu ý nghĩa của chúng. Đến lúc này, vị Dakini bật khóc và nói rằng ngươi là một học giả vĩ đại, nhưng cũng là một kẻ dối trá, vì người duy nhất hiểu được lời dạy này là anh trai nàng, Tilopa. Khi nghe đến cái tên Tilopa, Ngài khơi dậy một cảm giác sùng kính mãnh liệt, và nhận ra rằng Ngài cần phải tìm một vị thầy để đạt được sự chứng ngộ vẹn toàn. Ngài từ bỏ việc học cùng với vị trí của mình tại trường đại học và lên đường tìm Tổ Tilopa.
Naropa đã trải qua 12 tiểu nạn trong hành trình tìm kiếm người thầy của mình, tất cả đều là những lời dạy ẩn giấu trên con đường đi đạt thành chánh quả. Cuối cùng khi gặp Tổ Tilopa, Ngài đã được ban cho khẩu truyền về bốn pháp truyền thừa hoàn chỉnh và sau đó bắt đầu thực hành. Trong khi học và thiền với Tổ Tilopa, Ngài phải trải qua thêm 12 đại nạn nữa, tu hành để vượt qua mọi trở ngại trên con đường của mình, mà đỉnh cao là chứng đắc vẹn toàn Đại Ấn.
Ngài ở lại Pulahari giảng dạy cho các học trò của mình và viên tịch ở tuổi 85. Naropa đã dành tổng cộng mười hai năm với Tổ Tilopa. Ngài được nhớ đến vì sự tin tưởng và lòng sùng mộ đối với vị thầy của mình, điều này đã giúp Ngài đạt được giác ngộ trong một đời.
Ngài được coi là một trong tám mươi bốn đại thành tựu giả, một vị ‘thánh thiên’ của Phật giáo Mật thừa. Đại học Naropa được đặt tên để vinh danh Ngài.

ĐẠI DỊCH GIẢ MARPA (1012-1097)

Marpa Lotsawa, hay Đại Dịch Giả Marpa là đạo sư Phật giáo Tây Tạng được ghi nhận là người đã truyền nhiều giáo lý Phật giáo từ Ấn Độ đến Tây Tạng , bao gồm các giáo lý và dòng truyền thừa của Kim Cương Thừa và Đại Ấn.
Ngài có thế danh là Marpa Chökyi Lodrö, sinh ra tại Lhodrak Chukhyer miền nam Tây Tạng trong một gia đình giàu có. Ngài được đi học từ khi còn nhỏ nhưng rất hoang dã và khó bảo hơn so với những đứa trẻ khác. Lúc đầu, Marpa nhận giáo huấn trong suốt 3 năm tại tu viện Mangkhar với Drokmi Shakya Yeshe và thông thạo tiếng Phạn. Sau, Ngài quyết định đi đến Ấn Độ để tu học với các bậc thầy Phật giáo nổi tiếng của Ấn Độ. Marpa quay trở lại Lhodrak và chuyển toàn bộ tài sản thừa kế thành vàng để trang trải chi phí đi lại và cúng dường cho các vị thầy.
Trước tiên, Ngài đến Nepal và theo học với Đức Paindapa và Đức Chitherpa, hai môn đệ nổi danh của Tổ Naropa. Paindapa sau đó cùng Tổ Marpa đến Pullahari, gần Đại học Nalanda, nơi Tổ Naropa giảng dạy. Marpa đã dành mười hai năm để học với Tổ Naropa và các đạo sư Ấn Độ vĩ đại khác. Sau mười hai năm, Ngài lại lên đường trở lại Tây Tạng để giảng dạy và tiếp tục các Phật sự của mình.
Marpa đã đến Ấn Độ thêm hai lần, đến Nepal thêm ba lần nữa và học với Tổ Naropa và những vị thầy vĩ đại khác bao gồm cả Đức Maitripa. Trong chuyến thăm lần thứ ba đến Ấn Độ, Tổ Naropa do [ẩn tu] thực hành các pháp tantric nên rất khó tìm thấy. Tuy nhiên cuối cùng Tổ Marpa đã tìm thấy Ngài và nhận được những giáo lý và chỉ dẫn cuối cùng từ Tổ Naropa. Sau đó, Tổ Naropa đã tiên tri rằng dòng dõi gia đình của Tổ Marpa sẽ không tiếp tục, nhưng dòng dõi của Ngài sẽ được tiếp nối bởi các đệ tử của mình. Nhận được sự trao truyền đầy đủ, vì vậy Tổ Naropa chính thức tuyên bố Tổ Marpa là người kế vị của mình mặc dù Ngài có những đại đệ tử khác bao gồm Paindapa, Chitherpa, Shri Shantibhadra hay Kukuripa, và Maitripa.
Khi trở về Tây Tạng, Tổ Marpa đã dành nhiều năm để dịch kinh Phật và đóng góp lớn vào việc truyền bá Phật pháp hoàn chỉnh đến Tây Tạng. Tổ Marpa tiếp tục thực hành và giảng dạy cũng như trao truyền cho nhiều môn sinh ở Tây Tạng. Sau chuyến viếng thăm thứ ba đến Ấn Độ, Milarepa trở thành đệ tử và là người kế thừa trọn vẹn dòng truyền thừa của Ngài. Tổ Marpa sống với vợ là Dakmema và các con trai ở Lhodrak, miền nam Tây Tạng.

TỔ MILAREPA (1052-1135)

Đức Jetsun Milarepa sinh vào khoảng 1052-1135 là một trong những thiền sinh và nhà thơ nổi tiếng nhất Tây Tạng, học trò của Marpa Đại Dịch Giả, và là nhân vật nổi trội trong lịch sử của dòng truyền thừa Kagyu.
Sinh ra tại làng Kya, Ngatsa ở Tây Tạng trong một gia đình thịnh vượng, Ngài được đặt tên là Mila Thöpaga (Thos-pa-dga), có nghĩa là “Điều vui tai”. Nhưng khi cha Ngài qua đời, chú và dì của Ngài đã lấy hết tài sản của gia đình. Theo yêu cầu của mẹ, Milarepa rời nhà và học ma thuật. Trong khi dì và chú của Ngài đang mở tiệc để kỷ niệm cuộc hôn nhân sắp diễn ra của con trai mình, Ngài đã trả thù bằng cách khiến ngôi nhà mà họ đang ở sụp đổ, giết chết 35 người, mặc dù chú và dì Ngài được cho là vẫn sống sót. Dân làng tức giận và lên đường đi tìm Milarepa, nhưng mẹ Ngài đã tin lời Ngài, và Ngài đã làm ra một trận mưa đá phá hủy mùa màng của họ.
Tổ Milarepa biết rằng sự trả thù của mình là sai lầm nên đã đi tìm một vị thầy và được dẫn đến gặp Marpa, Đại Dịch Giả. Tổ Marpa là một vị thầy nghiêm khắc, và trước khi dạy Ngài đã yêu cầu Tổ Milarepa xây dựng một ngôi nhà, sau đó bắt phá bỏ và cứ lặp lại như vậy suốt 3 lần. Khi Tổ Marpa vẫn chưa đồng ý dạy cho Tổ Milarepa, Ngài đã tìm đến vợ của Tổ Marpa, người đã thương hại Ngài. Bà đã giả mạo một lá thư giới thiệu Tổ Milarepa cho một vị thầy khác, Lama Ngogdun Chudor. Dưới sự hướng dẫn của Lama Ngogdun Chudor, Ngài bắt đầu thực hành thiền định. Tuy nhiên, khi không có tiến triển gì, Ngài đã thú nhận hành vi giả mạo và Ngogdun Chudor nói rằng mong cầu phát triển tâm linh mà không có sự chấp thuận của đạo sư là vô vọng. Tổ Milarepa trở lại với Tổ Marpa, và sau khi thực hành rất miên mật trong mười hai năm, Tổ Milarepa đã đạt được trạng thái Kim Cang Trì (giác ngộ hoàn toàn). Ngài được cho là người đầu tiên đạt được cảnh giới này trong một đời. Sau đó, Ngài được gọi là Milarepa, có nghĩa là “Mila, người mặc áo khoác vải” (hậu tố “repa” được đặt cho nhiều hành giả du già mật tông vì họ mặc áo choàng trắng). Năm bốn mươi lăm tuổi, ngài bắt đầu tu hành tại Drakar Taso (Đỉnh Nanh Ngựa Trắng), và trở thành một du tăng. Từ đây, Ngài sống cầm cự bằng trà cây tầm ma, khiến da chuyển sang màu xanh lá cây – do đó hay được miêu tả là có làn da màu xanh lục trong các bức tranh và tác phẩm điêu khắc.
Milarepa nổi tiếng với nhiều bài thi kệ và đạo ca, qua đó Ngài thể hiện sự giác ngộ Giáo Pháp thâm sâu một cách sáng tỏ và đẹp đẽ lạ thường. Ngài cũng có nhiều đệ tử, bao gồm Đức Rechung Dorje Drakpa (Ras-chung Rdo-rje Grags-pa), Đức Gampopa (Sgam-po-pa) hay Đức Dhakpo Lhaje. Chính Đức Gampopa đã trở thành người kế tục tinh thần của ngài, người tiếp tục dòng truyền thừa và trở thành một trong những đạo sư dòng truyền thừa chính trong truyền thống của Tổ Milarepa.

TỔ GAMPOPA (1079-1153)

Tổ Gampopa, còn được gọi là Dagpo Lhaje (thầy thuốc từ Dagpo) và Dakpo Rinpoche (Bậc tôn quý từ Dagpo), đã lập nên truyền thừa Kagyu, một trong bốn hệ phái chính của Phật giáo Tây Tạng. Theo nhiều cách, việc thành lập hệ phái Kagyu đánh dấu sự khởi đầu của một thể chế riêng biệt mà chúng ta ngày nay được công nhận là Phật giáo Tây Tạng, ngay cả khi mô hình Phật giáo Mật tông Ấn Độ, nguồn gốc của Phật giáo Tây Tạng đã lụi tàn.
Tổ Gampopa, một vị thầy thuốc từ vùng Dagpo ở Kham, là học trò quan trọng nhất của vị đạo sư Milarepa. Tổ Gampopa nổi tiếng về nhận thức sáng tỏ và kiến ​​thức về truyền thống Kadampa cùng các pháp Đại Ấn.
Trước khi theo học Tổ Milarepa, Tổ Gampopa đã nghiên cứu về truyền thống Kadampa, đây là một con đường thực hành dần dần dựa trên các giáo lý lamrim. Ngài đã tìm kiếm, và cuối cùng đã gặp Milarepa, và đạt được sự chứng ngộ về thực tại tối thượng dưới sự hướng dẫn của đạo sư. Chuỗi truyền thừa này  kết hợp với nhau, được gọi là “Năm vị Tổ sư sáng lập” bởi những hành giả Kagyu.
Tổ Gampopa đã trước tác tác phẩm Bảo Châu Giải Thoát và thành lập hệ phái Dagpo Kagyud vào năm 1125. Hệ phái này hợp nhất với hệ phái Shangpa Kagyud lâu đời hơn nhưng ít ảnh hưởng hơn, được thành lập vào khoảng năm 1050, cũng phụ thuộc vào Naropa, để tạo thành hệ phá Kagyu chính. Mặc dù hệ phái Shangpa là phái Kagyupa đầu tiên, nhưng chính Tổ Gampopa là người đã thống nhất các giáo lý Kadampa và Đại Ấn vào phương pháp tu tập của dòng Kagyu.
Bốn trong số các đệ tử của Ngài đã thành lập bốn trường phái Kagyu lớn:
– Babrom Kagyu do Babrom Dharma Wangchuk thành lập
– Pagdru Kagyu do Phagmo Trupa Dorje Gyalpo thành lập
– Tsalpa Kagyu do Shang Tsalpa Tsondru Drag thành lập
– Karma Kagyu, còn được gọi là Trường phái Kamtsang Kagyu, do Düsum Khyenpa, Đức Karmapa đệ nhất sáng lập
Gampopa có ba đệ tử tâm truyền: Đức Dusum Khyenpa, Đức Phakmo Drupa và Đức Saltong Shogom. Đức Dusum Khyenpa (1110-1193), hay còn được gọi là Khampa Usey (nghĩa đen là “Khampa tóc trắng”), được gọi là Karmapa Đệ Nhất, người đã thiết lập dòng truyền thừa Karma Kagyu.

TỔ PHAGMO DRUKPA (1100 – 1170)

Tổ Phagmo Drupa sinh ra ở tỉnh Kham, miền đông Tây Tạng trong một gia đình nghèo khó kiếm sống bằng những phương pháp không trong sạch. Tuy nhiên, Tổ Phagmo Drupa vẫn không bị ảnh hưởng bởi những hành vi sai trái của gia đình. Khi mới bốn tuổi, Ngài thọ giới sa di và bắt đầu tu tập trên con đường Đaọ. Ngài đi đến miền trung Tây Tạng để được dạy thêm từ các bậc thầy cư trú trong vùng lân cận.
Ngài được đào tạo về trí tuệ và tâm linh từ một loạt các bậc thầy có trình độ, trong đó có Đức Jetsün Sakyapa, người đã dạy Ngài những giáo lý Lam-Dre hoàn chỉnh. Tổ Phagmo Drupa tinh thông nhiều mật điển khác nhau và thực hành thiền định rất nghiêm túc. Ngài có thể ngồi thiền nhiều ngày, hoàn toàn đắm chìm trong trạng thái minh mẫn và hỷ lạc.
Ngay cả trước khi gặp Tổ Gampopa, Phagmo Drupa đã thể hiện những phẩm chất của một hành giả thành tựu. Trong tất cả các hoạt động của mình, Ngài đối xử hoàn toàn khiêm nhường và công bằng đối với tất cả mọi người, bất kể địa vị xã hội hay sự giàu sang của họ. Ngài đặc biệt có tấm lòng nhân ái và thấu hiểu những người kém may mắn, không ngừng cho họ tài sản của mình mặc dù Ngài cũng không có đủ cho bản thân. Quan trọng nhất, Tổ Phagmo Drupa luôn tỏ lòng biết ơn khi được phụng sự tất cả chúng sinh mà không có ngoại lệ. Trong thực hành, Tổ Phagmo Drupa đã dành phần lớn thời gian của mình để quán chiếu và thiền định.
Mặc dù đã có những thành tựu tâm linh nhất định nhưng Tổ Phagmo Drupa vẫn cảm thấy rằng  cần sự hướng dẫn của một bậc thầy đủ phẩm chất con đường [Đạo]. Do đó, Ngài đã đến Tu viện Dagla Gampo. Khi nhìn thấy Tổ Gampopa và sau một cuộc thảo luận ngắn với ngài, Phagmo Drupa ngay lập tức chứng ngộ được tuệ tâm của chính mình, và hoàn toàn nhận ra chân lý tối thượng. Trong những ngày sau đó, Tổ Phagmo Drupa trực tiếp chứng ngộ hoàn toàn Đại Ấn.
Trong phần còn lại của cuộc đời, Phagmo Drupa tiếp tục thực hành thiền định với sự kiên định không ngơi nghỉ, là tấm gương cho người khác. Sau đó, Ngài thành lập một tu viện ở miền trung Tây Tạng, và có vô số đệ tử, trong đó tám đệ tử thành tựu nhất của Ngài sau này đã thành lập các giáo phái phụ của Dòng Kagyud:

  1. Drikung Kagyu
  2. Taklung Kagyu
  3. Drukpa Kagyu
  4. Yasang Kagyu
  5. Trophu Kagyu
  6. Shuksep Kagyu
  7. Yelpa Kagyu và
  8. Martsang Kagyu.
SƠ TỔ JIGTEN SUMGON (1143 – 1217)

Lord Jigten SumgonMặc dù có cùng một gốc, nhưng vào thời điểm đó dòng truyền thừa Drikung Kagyu đã phát triển thành nhiều nhánh khác nhau, mỗi nhánh đều mang theo những giáo lý trọn vẹn và những phước lành giác ngộ. Như cây như ý có một gốc nhưng lại nảy nở nhiều cành, mỗi nhánh cho nhiều hoa và quả tuyệt vời. Mặc dù Phagmodrupa có hàng trăm ngàn đệ tử, nhưng Tổ Jigten Sumgon là một trong những đệ tử chính và thân cận nhất của ngài. Tổ Phagmodrupa đã tiên tri rằng những giáo lý và phước lành sẽ được hoạt hiện bởi một vị Bồ tát, (Jigten Sumgon), người đã chứng đắc thập địa.
Người kế vị của Tổ Phagmodrupa, Sơ Tổ Jigten Sumgon, (1143-1217), là hiện thân của chư Phật ba thời và là hóa thân của Ngài Long Thọ Arya Nagarjuna. Ngài xuất thế trong thời không cát tường, như một nguồn cảm hứng cho những ai quyết tâm thoát khỏi luân hồi sanh tử. Những năm đầu đời, Ngài đã gặp gỡ với những đạo sư vĩ đại, nhận được tất cả các khía cạnh của giáo Pháp, và cuối cùng gặp được Đức Phagmodrupa, từ đó Ngài đã nhận được những giáo lý truyền thừa hoàn chỉnh. Để thâm nhập những giáo huấn này trong tâm trí của mình, Ngài đã thực hành miên mật suốt ngày đêm cho đến khi đạt được Phật quả tại Động Echung vào năm ba mươi lăm tuổi.
Thể theo yêu cầu của cả loài người và loài phi nhân,  đã thành lập một tu viện tại Drikung Thil (1179) và như thế, trở thành Tổ Sư sáng lập ra dòng truyền thừa Drikung Kagyu.
Những giáo huấn của Ngài hướng đến người nghe vượt qua mọi sự khác biệt về văn hóa và giáo điều, hiển lộ được quy luật bất biến của nhân và quả. Mặc dù có hàng trăm đệ tử, Ngài không bao giờ từ bỏ bất kỳ chúng sinh nào khỏi trái tim mình, một lòng mong muốn xua tan đau khổ của họ và đưa họ thoát khỏi luân hồi. Là hiện thân của trí tuệ và lòng từ bi, Ngài đã cắt đứt mối liên hệ với các tập khí tiêu cực của họ.
Tổ Jigten Sumgon đã trước nhiều bài bình giảng và luận giải, đặc biệt là bốn tập sách được gọi là (tạm dịch) Những Lời Dạy Thâm Sâu Về Nội Tâm, trong đó Ngài đưa ra những lời chỉ dẫn và lời khuyên về thiền định. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Ngài, Gong Chik – Cùng Một Tâm Giải Thoát, chứa đựng tất cả các khía cạnh thiết yếu của Giới Luật tạng, Bồ đề tâm và Mật thừa.

Nguồn: ‘Our Lineage’, Drikung Kyobpa Choling.

DAC Biên tập và cẩn chuyển Việt ngữ.

đóng góp cho DAC

Các trung tâm Pháp thật vô cùng trân quý và trung tâm có thể hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào sự ủng hộ của các vị đệ tử. Mặc dù chúng ta đã thành lập trung tâm nhưng nếu không có được sự ủng hộ của tăng đoàn thì trung tâm sẽ không thể tồn tại trong tương lai. Nếu con ủng hộ cho các trung tâm Pháp thì con sẽ nhận được phước báu lớn lao trong đời này và cả đời vị lai. Và phước báu là cội nguồn của hạnh phúc.


Kyabje Garchen Rinpoche

đọc thêm