Phần 1: Giáo Lý
Khi bắt đầu một buổi nghe pháp, hãy phát khởi động cơ bồ đề thanh tịnh: Nguyện con [thành tựu] vì sự giác ngộ toàn hảo của hết thảy chúng sinh.
Giáo Pháp nhà Phật phân loại thành Tam Tạng Kinh Điển, và tất cả tinh tuý của các Pháp đều bao hàm trọn vẹn trong Con Đường Đại Ấn Năm Nhánh. Pháp tu này lại được phân ra làm 3 phần:
- Phần Tiên Yếu
- Phần Chánh Hành
- Phần Kết
Chủ đề của loạt Pháp thoại chúng ta đang học thuộc về Phần Tiên Yếu. Lại nói, các pháp tu tiên yếu được phân chia thành các đề mục như sau:
- Các Pháp Tu Tiên Yếu Thông Thường (Ngoại tại): Bốn niệm chuyển tâm
- Các Pháp Tu Tiên Yếu Phi Thường (Nội tại):
-
- Quy Y và Lễ lạy
- Kim Cang Tát Đoả
- Cúng dường mạn đà la
- Đạo sư du già
- Các Pháp Tu Tiên Yếu Đặc Biệt:
-
- Trưởng dưỡng tình yêu thương
- Trưởng dưỡng lòng bi mẫn
- Trưởng dưỡng bồ đề tâm.
Những buổi trước chúng ta đã học về các pháp ngoại tại và nội tại, cũng như bước thứ nhất của pháp đặc biệt, chính là trưởng dưỡng tình yêu thương. Hôm nay chúng ta sẽ học tiếp phần thứ 2 của Pháp tu Tiên yếu Đặc biệt là pháp tu trưởng dưỡng lòng từ bi. Như vậy tính đến hôm nay chúng ta đã được học khá nhiều đề mục về các pháp tiên yếu, liệu các bạn có hiểu rõ các khái niệm này chưa? Nếu các bạn nhìn vào [con đường tuần tự] này liệu các bạn có thể tự tin nói rõ ý nghĩa của những pháp này không? Hoặc nếu không thể trình bày rõ ràng ý nghĩa của từng đề mục thì liệu các bạn có hiểu được ý nghĩa khái quát của các đề mục không?
Thầy sẽ mặc định là các bạn đều trả lời có nhé! Nếu thầy cho các bạn một bài kiểm tra thì thầy nghĩ mọi người sẽ vượt qua được thôi. 😀
Cho dù chúng ta hành trì pháp gì đi nữa, theo truyền thống Nguyên Thủy hay Đại Thừa hay Kim Cang Thừa thì nền tảng Bồ Đề Tâm đều là quan trọng nhất và không thể thiếu. Thậm chí ta có thể nói phát khởi Bồ Đề Tâm thôi là đã đủ rồi. Trong buổi học trước chúng ta đã được học về tình yêu thương: ý nghĩa, phương pháp trưởng dưỡng và thiền định về tình yêu thương. Hôm nay chúng ta sẽ học đến bước thứ 2 – lòng bi mẫn.
Nhìn chung tình yêu thương và lòng bi mẫn khá tương đồng. Tình yêu thương chính là ước nguyện cho mọi chúng sinh có được hạnh phúc và nhân hạnh phúc còn lòng bi mẫn là mong nguyện mọi chúng sinh được giải thoát khỏi khổ đau và nhân của khổ đau. Tâm bi mẫn chính là nền tảng sống còn của Phật giáo Đại Thừa, là cội nguồn phát khởi những phẩm tánh của Pháp và là [phương pháp] để tịnh hoá nghiệp chướng của ta. Lòng bi mẫn trong ta càng khởi lên mạnh mẽ thì ta càng có thể tịnh hoá được nhiều nghiệp chướng. Ngược lại nếu chúng ta không phát khởi được lòng bi mẫn thì sẽ không tịnh hoá được nhiều nghiệp chướng.
Có những đạo hữu ưa thích thực hành Bổn tôn, [như thế hãy hiểu rằng] việc thành tựu Bổn tôn phải dựa trên nền tảng của lòng bi mẫn vì chư Bổn tôn chính là hoá hiện của lòng bi mẫn. Khi trưởng dưỡng lòng bi mẫn thì sự hiểu biết về thực hành Bổn tôn của bạn sẽ càng sâu sắc hơn. Nền tảng của thiền định Bổn tôn chính là lòng bi mẫn.
Lại có những đạo hữu ưa thích thực hành các pháp tu Bổn tôn phẫn nộ. Khi chiêm ngưỡng hình tướng của các Ngài, ta thấy vô cùng choáng ngợp: các Ngài đứng giữa vòm lửa rừng rực cháy, miệng há to với mắt lồi ra, trên tay cầm vũ khí. Các Ngài dữ dội, đáng sợ nhưng cũng đầy oai lực quyền uy. Các đạo hữu có thể nghĩ rằng khi họ thực hành Bổn tôn đầy oai lực như vậy thì cũng sẽ có quyền uy giống như các Ngài. Cách suy nghĩ như vậy thật sai lầm bởi lẽ chư Bổn tôn Phẫn nộ thực sự hoá hiện từ lòng bi mẫn tột cùng. Chư Bổn tôn an bình và phẫn nộ đều có cùng phẩm tánh như nhau nhưng lòng bi mẫn của các vị Bổn tôn phẫn là tột cùng mãnh liệt. Chư tôn phẫn nộ thấm đượm một lòng từ bi dữ dội. Đây chính là tinh tuý của chư tôn phẫn nộ.
Mặc dù hoá hiện dưới hình tướng [phẫn nộ] nhưng nếu ta hiểu rõ ràng rằng các vị Phẫn nộ Tôn cũng hoá hiện từ chính lòng từ bi dữ dội để làm lợi lạc cho tất thảy chúng sinh [ta cũng sẽ hiểu rõ rằng] oai lực và phẩm tánh của các Ngài cùng chư tôn an bình đều đồng là một. Vì thế hành giả nào trưởng dưỡng lòng từ bi, chắc chắn sẽ nhận được gia lực của các ngài. Và khi ấy, hành giả thành tựu vị Bổn tôn.
Trong truyền thống Đại Thừa và Kim Cang Thừa, lòng bi mẫn là nền tảng trọng yếu nhất, là nền tảng không thể thiếu. Đặc biệt trong truyền thống Kim Cang Thừa lại càng quan trọng hơn hết cả. Vì thế nên các thực hành tiên yếu có ý nghĩa đặc biệt lớn lao.
Trước hết, ta cần phải hiểu rất rõ về nhân quả và có nền tảng sơ khởi về tình yêu thương, lòng từ bi và bồ đề tâm. Dựa trên nền tảng này, thực hành Bổn tôn của ta mới thành tựu viên mãn. Ngược lại nếu không có nền tảng của sự tin sâu nhân quả, chẳng màng trưởng dưỡng tình yêu thương và bồ đề tâm mà chỉ mong cầu thực hành Bổn tôn để nhận gia lực và sức mạnh thì sẽ chẳng thể nào gặt hái thành tựu. Ta cần phải có nền tảng vững chắc, phải thực hành tuần tự từng bước một, phải thật sự thấm nhuần tình yêu thương và lòng bi mẫn trong dòng tâm thức. Toàn bộ thực hành Kim Cang Thừa đều phụ thuộc hoàn toàn vào nền tảng này cả. Tất cả những nghiệp chướng của ta chỉ có thể được tịnh hoá thông qua lòng bi mẫn mà thôi.
Có một câu chuyện về Ngài Vô Trước như sau. Ngài Vô Trước đã thực hành pháp tu của Đức Di Lặc suốt 9 năm nhưng chưa bao giờ có được linh kiến về đức Di Lặc. Ngài vô cùng tuyệt vọng và đã muốn bỏ cuộc. Trong nỗi tuyệt vọng ấy, cuối cùng Đức Di Lặc cũng hiển hiện trước mắt Ngài. Ngài hoá hiện như thế nào? Lúc ấy, Ngài Vô Trước đã hoàn toàn bỏ cuộc, trên đường đi Ngài gặp một con chó với thân sau ghẻ lở, dòi bọ lúc nhúc. Nhìn thấy cảnh ấy, trong lòng Ngài trỗi lên niềm thương cảm và từ bi tột độ. Ngài muốn giúp nó thoát khỏi nỗi đau khổ [bị hành hạ] bởi những con giòi. ‘Nhưng nếu dùng tay gạt lũ giòi ra thì ta sẽ giết chết chúng mất’, Ngài thầm nghĩ. Cuối cùng, Ngài quyết định sẽ dùng lưỡi lấy những con giòi ra. Bởi [vết thương của con chó] trông cũng khá đáng sợ nên Ngài đã nhắm mắt lại, cúi xuống và đưa lưỡi ra để gỡ những con giòi. Tuy vậy mãi mà Ngài vẫn không chạm được đến con chó. Ngạc nhiên, Ngài mở mắt và nhìn thấy Đức Phật Di Lặc đang an ngự ngay phía trước. Khi nhìn thấy Đức Di Lặc, Ngài Vô Trước hơi buồn lòng và hỏi:
“Vì sao con đã thực hành pháp tu của Ngài chẳng hề mệt mỏi suốt bao nhiêu năm mà Ngài vẫn không một lần nào cho con được diện kiến tôn nhan? Vì sao mãi đến bây giờ Ngài mới hiển lộ trước mặt con?”
Đức Di Lặc đáp:
“Đó là bởi vì con vẫn chưa khởi phát được lòng bi mẫn tột cùng trong tâm. Ngày hôm nay, lòng bi mẫn chân chính trong con đã hoàn toàn bộc lộ, vì thế tất cả mọi nghiệp chướng của con nay đã hoàn toàn tịnh hoá. Đó là lý do vì sao con có thể thấy ta. Thế nhưng thật ra ta đã luôn bên con từ đầu, chỉ là con không thể nhìn thấy ta mà thôi. Nhờ lòng bi mẫn vĩ đại mà hôm nay, mọi nghiệp chướng của con hoàn toàn được tịnh hoá. Vì thế mà con có thể thấy ta.”
Như vậy, nói ngắn gọn thì chính nhờ lòng bi mẫn mà Ngài Vô Trước mới thật sự thành tựu pháp tu của Đức Di Lặc. Cũng như thế, nếu chúng ta khởi phát lòng bi mẫn tột cùng thì ác nghiệp của chúng ta cũng sẽ đều được tịnh hoá.
Vì vậy lòng bi mẫn là cực kỳ quan trọng. Chúng ta tiến tu đến đâu hoàn toàn dựa vào lòng bi mẫn của chúng ta đã trưởng dưỡng lớn đến đâu. Nói một cách ngắn gọn, điều ta thật sự cần phải thành tựu thông qua việc tu học Phật Pháp chính là phải tăng trưởng lòng bi mẫn. Hãy tự quán chiếu tâm ta, nếu lòng bi mẫn trong ta tăng trưởng thì ta thật sự đang hiểu đúng Pháp Phật, hiểu đúng Pháp Đại Thừa. Một hành giả tăng tiến trên con đường tu chính là một hành giả với tâm bi mẫn dần tăng trưởng. Vì vậy, hãy nỗ lực trưởng dưỡng tâm bi mẫn. Tâm bi mẫn chính là phẩm tánh của thánh Pháp. Tất cả mọi phẩm tánh thiện lành đều nảy sinh từ tâm ấy cả.
Các hành giả lâu năm, các bạn hãy kiểm tra những dấu hiệu trong tâm để quán xét công phu thực hành của mình. Những dấu hiệu này là gì? Hãy tự vấn: ‘mình có lòng từ bi hay không? Lòng từ bi của mình có nhiều [hơn khi xưa] hay không?’ Gần đây chúng ta đã được học về các pháp tu Quy y lễ lạy, Kim Cang Tát Đoả, Cúng dường Mandala và Guru Yoga. Là hành giả [Kim Cang Thừa] chúng ta bắt buộc phải hoàn thành các pháp tu tiên yếu này. Vậy dấu hiệu của sự hoàn thiện chính là lòng bi mẫn. Hãy tự quán xét tâm mình. Nếu có những dấu hiệu này, thực hành tiên yếu của các bạn đã hoàn toàn viên mãn, các bạn thật sự đã thấm nhuần bốn tư tưởng chuyển tâm.
Sau này khi các bạn thực hành các pháp tu Bổn tôn, ví như Tara, A Di Đà, Chenrezig hay các pháp tu Bổn tôn phẫn nộ cũng thế. Hãy luôn tự vấn và quán xét xem lòng bi mẫn trong ta như thế nào, có tăng tiến hay chăng?
Đây chính là các chỉ dấu của sự tiến tu trên con đường thực hành chánh Pháp.
Có đôi lúc các đạo hữu hỏi thầy rằng, ‘thưa thầy, con đã tu học Phật Pháp một thời gian dài. Xin thầy quán chiếu xem con có đang đi đúng đường không, có thực hành sai không?’ Có những đạo hữu vẫn có những mối hồ nghi như thế. Nếu các bạn có vị đạo sư để tham vấn như vậy thì thật tuyệt vời. Nhưng [nếu không có cơ hội tham vấn đạo sư], các bạn cũng có thể tự quán chiếu để tự tìm ra câu trả lời: câu trả lời nằm ở ngay trong bạn. Nếu lòng bi mẫn của các bạn phần nào tăng trưởng, như vậy chắc chắn 100% là bạn đang thực hành đúng đắn, dù là thực hành pháp gì đi nữa. Tuy nhiên, nếu bạn thấy rằng dù đã tu học suốt bao nhiêu năm mà lòng bi mẫn chẳng mảy may tăng trưởng, vậy bạn phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tu dưỡng tâm ấy bởi như vậy có nghĩa là bạn chưa thật sự chạm đến điểm tinh yếu của thực hành Pháp.
Như vậy điểm tinh yếu của thực hành Pháp chính là phải tăng trưởng lòng bi mẫn. Chỉ có như vậy thì mọi phẩm tánh và gia lực của Pháp mới nảy nở trong tâm.
Kinh điển nói: “Hành giả nào có tình yêu thương sẽ có Pháp. Hành giả nào có lòng bi mẫn sẽ có bồ đề tâm. Hành giả nào có bồ đề tâm sẽ có Phật.” Điều này có nghĩa là khi có tình yêu thương, ta sẽ có Pháp. Khi có lòng bi mẫn ta sẽ có Bồ đề tâm. Khi thành tựu cả tình yêu thương, lòng bi mẫn và bồ đề tâm ta sẽ đạt thành quả vị Phật.
Như đã nói, nếu trong tâm không có lòng bi mẫn, các nghiệp chướng sẽ không thể hoàn toàn được tịnh hoá. Vì sao lại như thế? Vì lòng bi mẫn có liên hệ với lòng vị tha. Nếu lòng bi mẫn chưa khởi phát trong tâm, thì lòng vị tha cũng sẽ không thể khởi phát và vì vậy chấp ngã sẽ không thể giảm thiểu. Một khi trong tâm ta vẫn còn chấp ngã thì bồ đề tâm sẽ không thể khởi sinh. Vì vậy, hãy hiểu rằng lòng bi mẫn là không thể thiếu. Cũng giống như khi chúng ta muốn trồng một bông hoa thì phải cần hạt giống. Bông hoa là bồ đề tâm và hạt giống này chính là lòng bi mẫn. Nếu như không có hạt giống lòng bi mẫn thì không thể nào có được bông hoa bồ đề tâm. Vì vậy, phải trưởng dưỡng lòng bi mẫn.
Chúng ta cũng được dạy rằng phải thực hành hạnh nhẫn nhục. Nhưng nhẫn nhục là rất khó, có phải không? Tuy vậy, nếu chúng ta có lòng bi mẫn thì chắc chắn ta sẽ thực hành được hạnh nhẫn nhục. Thông thường, phiền não của chúng đều có tính tương tác. Ví dụ, ta giận một ai đó, hoặc đố kị hay muốn hãm hại một người nào đó. Tất cả những cảm xúc tiêu cực này đều hướng đến đến “một đối tượng” nào đó. Vì vậy, cách đối trị những cảm xúc tiêu cực này là lòng bi mẫn. Nếu các bạn có lòng bi mẫn thực sự thì ngay khi những cảm xúc giận giữ, đố kỵ nảy sinh, bạn sẽ nhanh chóng giải toả chúng, chúng không thể hằn sâu vào trong tâm bạn nếu tâm bạn ngập tràn lòng từ bi. Ngược lại, không có lòng bi mẫn thì bạn sẽ tích luỹ rất nhiều những niệm tưởng sân hận, đố kỵ vân vân.
Hãy nhớ rằng tất cả những cảm xúc ô nhiễm này đều khởi sinh từ tâm chấp ngã. Sự bám chấp vào cái ngã giống như một tổ kén nuôi dưỡng các cảm xúc tiêu cực, hay như một cái thùng rác vậy. Cái thùng rác, cái tổ kén này cứ thế tích luỹ đủ các loại nghiệp tưởng ô nhiễm và tiêu cực như tranh đua, căm ghét; những suy nghĩ tai hại, yêu quý những gì ta cho là của mình và chán ghét những gì không phải của mình. Như vậy, mọi niệm tưởng ô nhiễm đều nảy sinh từ chấp ngã và chỉ có thể đối trị bằng lòng bi mẫn. Khi có lòng bi mẫn, cái bình chứa chấp ngã này sẽ tan biến.
Đương nhiên khi đã chứng ngộ tánh không mọi việc sẽ trở nên vô cùng đơn giản. Nhưng đối với những con người bình thường như chúng ta thì bắt buộc phải trưởng dưỡng lòng bi mẫn, điều này là không thể thiếu. Một cách tự nhiên, khi lòng bi mẫn chân chính khởi phát trong tâm thì mọi cảm xúc ô nhiễm sẽ sụp đổ. Vì sao có thể như thế? Hãy lấy ví dụ của sự sân hận. Cảm xúc sân hận hay đố kỵ này đều hướng đến một đối tượng nào đó. Tuy nhiên, nếu tâm ta khởi lên lòng yêu thương bi mẫn đến đối tượng kia, tức thì các niệm tưởng sân hận sẽ chẳng thể tiếp tục hoành hành trong tâm nữa. Ta sẽ nghĩ rằng ‘người bạn đang tấn công tôi đang tích luỹ vô vàn nghiệp chướng. Vì nghiệp chướng này bạn sẽ tiếp tục trầm luân trong đau khổ. Tôi thương bạn biết bao!’ Khi bạn có lòng bi mẫn thật sự trong tâm, bạn sẽ nghĩ được như thế. Ngược lại nếu không có những cảm xúc của tâm bi, bạn sẽ tiếp tục bám víu vào những niệm tưởng bất tịnh. Nhờ có lòng bi mẫn bạn sẽ thấy được rằng người này đang tự huỷ hoại chính bản thân họ bằng các ác nghiệp. Vì thế, mặc dù bên ngoài người kia đang hãm hại bạn, đang tấn công bạn nhưng nếu bạn tiếp tục trưởng dưỡng lòng bi mẫn, bạn sẽ dễ dàng chấp nhận và tha thứ. Ngược lại người kia sẽ tiếp tục tích luỹ nghiệp chướng và sẽ phải trả quả báo về sau. Đây là một mỗi lầm mà người bạn này chẳng nhận ra.
Khoảnh khắc lòng bi mẫn khởi sinh, sự hận thù liền tan biến. Chính lòng bi mẫn đã phá tan che chướng trong ta.
Dù người ta có làm gì bạn đi chăng nữa, nói xấu bạn, làm hại bạn nhưng nếu bạn vẫn giữ được lòng bi mẫn đến họ thì bạn sẽ không còn thù hận nữa. Đây chính là nhẫn nhục. Nhờ có lòng bi mẫn chân chính mà nhẫn nhục chân chính khởi sinh. Bạn sẽ có thể nhìn thấy người kia dưới một góc độ khác: bạn nhận ra rằng người bạn kia thật ra là ân nhân của mình mới đúng vì nhờ có họ mà bạn mới có cơ hội trưởng dưỡng lòng từ bi. Nhờ có lòng bi mẫn mà bạn có thể tịnh hoá ác nghiệp và che chướng, trong khi người ấy vì làm hại bạn và sẽ tiếp tục phải nhận thêm quả báo. Nghĩ được như thế bạn lại càng thấy thương họ hơn, và lòng hận thù sẽ tự nhiên tan biến.
Thật sự, lòng bi mẫn là quan trọng như thế đấy. Là hành giả Đại Thừa chúng ta cần phải viên thành đại bi tâm.
Trong Tuyển Tập Lời Phật Dạy (tạm dịch) có nói “Chúng sinh nào muốn thành Phật không cần phải tu học quá nhiều giáo Pháp. Tuy vậy, phải thật sự thuần thục một Pháp cho thật chín muồi – Pháp ấy là trưởng dưỡng lòng đại bi.” Như vậy, hành giả nào trưởng dưỡng được lòng đại bi sẽ có đầy đủ tất cả những phẩm tánh của Phật trong lòng bàn tay, trong dòng tâm thức.
Như vậy, phải thấy được tầm quan trọng không thể chối bỏ của lòng đại bi và nỗ lực hết mình để nuôi dưỡng tâm đại bi ấy.
Chúng ta có thể bắt đầu vào mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, hãy khởi lòng bi mẫn đến những người xung quanh ta, người thân, con cái. Những ai có thú cưng, hãy khởi lòng thương xót bi mẫn đến thú cưng của mình. Khi đi làm, hãy khởi lòng bi mẫn đến bạn đồng nghiệp của mình. Như thế, hãy khởi lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Thực hành như thế thì dần dần, lòng bi mẫn của ta sẽ càng ngày càng tăng trưởng.
Làm thế nào để nuôi dưỡng lòng bi mẫn? Ta phải nương tựa vào chánh niệm. Nếu không có chánh niệm, không có tỉnh giác thì rất nhiều cảm xúc khác nhau sẽ thường xuyên khởi lên trong tâm. Chúng ta sẽ [dễ dàng] nổi giận, ganh tị, khởi các tư tưởng gây hại, tư tưởng tiêu cực, các trạng thái tâm bất thiện, v.v… Nếu không có chánh niệm, khi người khác đến làm tổn thương ta thì ngay lập tức ta sẽ phản ứng, ta sẽ đánh trả và làm tổn thương lại người kia. Nhưng nếu có chánh niệm thì ngay lập tức ta sẽ nhận ra rằng: “À, người này đang tìm cách gây hại cho ta, thực ra là do lầm lạc nơi họ, và họ đang tích lũy rất nhiều nghiệp xấu.” Như vậy, thực ra chính họ đang tự làm hại mình. Và như vậy, lòng bi mẫn sẽ khởi lên khi ta có chánh niệm. Chánh niệm thật sự là điểm tựa, là người bạn đồng hành của lòng bi mẫn. Thật ra, chánh niệm thực sự nên đi cùng với tất cả các thiện hạnh của chúng ta, đặc biệt là trong thực hành lòng bi mẫn.
Ví dụ, nếu một người xúc phạm bạn hay làm tổn hại bạn theo bất kỳ cách nào, thì ngay lập tức, vì có chánh niệm, bạn sẽ nhớ đến lòng bi mẫn. Bạn sẽ nhận ra rằng người kia thực ra đã phạm sai lầm và bạn sẽ không nghĩ đến việc đánh trả hay làm tổn thương họ để trả đũa nữa. Khi ấy, bạn sẽ nghĩ rằng: ‘Mặc dù người này đang cố gắng làm hại ta, nhưng thực ra họ đang làm hại chính mình.’ Như vậy, nhờ chánh niệm, chúng ta hình thành một thói quen thực hành tâm bi mẫn. Chúng ta cần làm quen, tập quen với điều đó.
Chúng ta thường nói về tập khí và những dấu ấn nghiệp. Có những dấu ấn thiện, và cũng có những dấu ấn bất thiện. Ví dụ, ai cũng có những tính cách và thói quen khác nhau trong cuộc sống. Ví dụ, có người sáng vừa thức dậy là phải uống một ly cà phê, nếu không thì không chịu được. Đó là một dấu ấn, là thói quen đã được huân tập. Không phải vừa sinh ra từ trong bụng mẹ đã cần uống cà phê mà là sau khi lớn lên mới bắt đầu uống, rồi dần quen với điều đó, khiến việc uống cà phê trở thành thói quen thường ngày. Hoặc có người nghiện hút thuốc. Họ cũng không sinh ra đã có thói quen hút thuốc, đó là điều họ tập quen dần trong đời sống. Nhưng một khi đã nghiện thì họ không thể bỏ được, không thể thiếu được. Đây cũng là một thói quen đã được huân tập. Cũng giống như dấu ấn nghiệp, có thói quen thiện và bất thiện. Vì vậy, lòng bi mẫn thật ra cũng chính là một khuynh hướng mà ta cần hình thành trong tâm thức như một thói quen tốt đẹp. Và một khi đã dần quen, thì nó dần sẽ tăng trưởng.
Ban đầu, có thể lòng bi mẫn của ta còn nhỏ, nhưng chính lòng bi mẫn nhỏ bé đó lại là điều ta cần phải nhận ra và gìn giữ. Và nếu nỗ lực gìn giữ thì tâm ấy sẽ càng lớn dần hơn và trở thành lòng đại bi. Ban đầu, lòng bi mẫn của ta là “lòng bi mẫn mang tính khái niệm,” nghĩa là lòng bi mẫn chỉ khởi lên khi ta nhìn thấy ai đó đang đau khổ: trước tiên, phải có một đối tượng của lòng bi mẫn thì ta mới khởi phát lên cảm xúc ấy. Nhưng nếu ta dần huân tập lòng bi mẫn khiến cho tâm ấy tăng trưởng dần thì về sau, nó trở thành lòng bi mẫn tự nhiên, nghĩa là “lòng bi mẫn vô khái niệm”. Lúc này, bi mẫn tự nhiên hiện diện trong tâm mà không cần phải có đối tượng phát khởi nữa. Dù không có đối tượng nào thì tâm ấy vẫn luôn hiện diện bởi vì ta đã quen thuộc với nó rồi. Đây là cách chúng ta cần tu tập về lòng bi mẫn.
Ban đầu, chúng ta chưa có tâm đại bi, tuy nhiên, ai cũng có một lòng bi mẫn nhỏ bé, dù chỉ là một chút. Ngay cả những con vật như loài hổ, báo ăn thịt cũng có lòng từ bi đối với con của chúng. Điều cần làm là chúng ta cần tăng trưởng lòng bi mẫn ấy và nghĩ rằng: không chỉ là lòng bi mẫn với con cái hay gia đình mình, mà cần được mở rộng đến tất cả chúng sinh.
Vì thế, trước hết, hãy nhận ra lòng bi mẫn trong tâm mình dù chỉ là nhỏ bé. Khoảnh khắc bi mẫn ấy, dù có nhỏ bé thế nào, cũng là một điều vô cùng quý báu. Hãy nghĩ rằng: ‘Đây là viên ngọc quý của ta, ta cần làm cho nó tăng trưởng.’ Và thật sự, nếu có lòng bi mẫn, thì ta có thể nghĩ rằng: ‘Nếu có điều gì tốt đẹp nơi ta, thì chính là nhờ lòng bi mẫn. Chính lòng bi mẫn là điều khiến ta có được các phẩm chất tốt lành.’
Trong Nhập Bồ Tát Hạnh có nói rằng:
“Ngay cả một khoảnh khắc nhỏ bé thiện lành nào khởi lên trong tâm, thì điều đó cũng cần được xem như là sự gia trì của Tam Bảo.”
Giống như vào ban đêm, khi ta thấy một tia chớp lóe lên, dù chỉ trong thoáng chốc thì nó vẫn mang tính chất của ánh sáng và ta có thể thấy rõ trong khoảnh khắc đó giữa màn đêm. Cho nên, dù chỉ là một khoảnh khắc từ bi ngắn ngủi cũng nên được nhìn nhận như là điều vô cùng thiêng liêng quý báu. Và khi thấy như thế, thì ta mới có thể khiến nó tăng trưởng hơn. Ngay cả khoảnh khắc từ bi ngắn ngủi nhất, dù chỉ một sát-na, cũng là sự gia trì của Tam Bảo.
Ta nói rằng phải tu dưỡng lòng từ bi, vậy chúng ta nuôi dưỡng lòng từ bi đối với ai? Chúng ta nuôi dưỡng lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Điều này hoàn toàn giống như cách chúng ta đã nói về tình yêu thương trong buổi giảng tuần trước. Chúng ta khởi đầu từ người mẹ của mình, rồi quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều đã từng là mẹ của ta. Và cũng giống như ta đã nuôi dưỡng tình thương đến tất cả chúng sinh, thì giờ đây cũng vậy, ta cần nuôi dưỡng lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh.
Cũng như ta có thể khởi tâm yêu thương với người mẹ hiện đời, thì cách ta khởi tâm bi mẫn cũng là tương tự. Chúng ta đã học cách để khởi tâm thương yêu đối với mẹ là ghi nhớ bốn ân đức của bà. Đó là: (1) mẹ đã sinh ra thân này cho ta; (2) mẹ đã nuôi dưỡng và duy trì mạng sống của ta; (3) mẹ đã dạy ta về thế giới này; (4) và mẹ đã chịu đựng bao khổ nhọc vì ta. Đó là bốn ân đức của người mẹ. Và cũng như tình yêu thương, ta cũng khơi dậy lòng bi mẫn về mẹ mình theo cách ấy.
Tuy nhiên, khi thực hành nuôi dưỡng lòng bi mẫn, từ cái nhìn bao quát của người tu Đại Thừa, ta không nên chỉ nghĩ đến người mẹ hiện đời này mà nên quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều đã từng là mẹ của ta bao đời kiếp. Vì vậy, nếu có ai đó đang làm hại hay gây tổn thương ta, thì ta lại càng nên khởi tâm bi mẫn hơn đối với người ấy, đặc biệt là đối với những người làm hại ta. Bởi vì do tạo tác hành động gây hại nên họ đang tích lũy rất nhiều ác nghiệp. Tất cả chúng sinh đều đã từng là cha mẹ của ta trong quá khứ, vậy nên, người đang làm hại ta kia trong một kiếp trước cũng chính là cha mẹ của ta. Người ấy đã từng vô cùng tử tế với ta, giống như người mẹ bây giờ, nhưng ta đã không đáp đền ân nghĩa ấy. Vì vậy, giờ đây, họ trở lại với ta như một chủ nợ nghiệp báo, đến để đòi lại nợ xưa. Do vậy, ta lại càng nên khởi tâm đại bi hơn nữa đối với họ.
Nếu có thể khởi lòng bi mẫn đối với họ, thì thật ra chính bản thân ta cũng được lợi ích. Nếu không làm được như thế thì khi ai đó đến xúc phạm hay gây khó dễ cho ta, ta sẽ chỉ cảm thấy giận dữ, và điều đó thật ra là một mất mát cho chính mình. Tâm ta sẽ trở nên phiền não, bực tức, trăn trở với những suy nghĩ như: ‘Người này đã làm điều sai trái, mình phải làm gì để trả đũa?’ Rồi ta bắt đầu suy tính mọi cách để báo thù, để đáp trả lại những gì mình đã chịu. Chỉ riêng việc cứ suy nghĩ theo hướng ấy thôi cũng đã là một gánh nặng cho tâm rồi, phải không?
Nếu có lòng bi mẫn thì ta sẽ không phải trải qua tất cả những khổ não trong tâm như vậy. Ta sẽ chỉ nghĩ rằng: ‘Ồ, người ấy đang hành xử như vậy là do vô minh, do sai lầm.’ Nhưng bất kể là ai, nếu có lòng bi mẫn, ta sẽ có thể chấp nhận những khó khăn do họ gây ra.
Lòng bi mẫn chính là người bạn đồng hành, là sự bảo hộ tối thượng trong đời này và đời sau. Ta nói rằng: lòng bi mẫn là sự bảo vệ chính mình, nó bảo vệ ta và cũng bảo vệ người khác. Ví dụ, trong thời kỳ đại dịch, mọi người phải đeo khẩu trang, và có khẩu hiệu rằng: “Hãy đeo khẩu trang để bảo vệ bạn và người khác.” Lòng bi mẫn cũng giống như vậy—nó là sự bảo vệ cho chính ta và người.
Vậy, lòng bi mẫn bảo vệ ta bằng cách nào? Khi bị tổn thương, ta sẽ không nổi giận, không ghen tị, không khởi tâm oán ghét. Ngược lại, ta vẫn bình thản an vui. Chính sự an bình này là cách lòng bi mẫn bảo vệ ta: tâm ta không hề đau khổ hay phiền não. Và nếu không bị phiền não chi phối, ta sẽ không đoạ vào ba cõi thấp. Như vậy, lòng bi mẫn giúp ta thoát khỏi sân hận, ghen ghét, đố kỵ. Như thế, hãy thấy rõ rằng lòng bi mẫn thực sự bảo vệ ta.
Cũng như vậy, lòng bi mẫn cũng bảo vệ người khác nữa. Khi có người làm hại ta, thay vì khởi tâm trả đũa hay báo thù, ta sẽ nghĩ: ‘Người này thật đáng thương, họ đã lầm lỗi rồi.’ Nhờ thế ta muốn giúp họ nhiều hơn nữa, lòng bi mẫn lại càng sâu sắc hơn. Đó chính là cách lòng bi mẫn trong tâm ta có thể bảo vệ người khác.
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ, nhưng thực ra nó có thể mở rộng ra rất lớn. Trong ý nghĩa thâm sâu, lòng bi mẫn bảo vệ ta và mọi chúng sinh khỏi khổ đau của luân hồi sinh tử. Tâm Bồ-đề, tình yêu thương và lòng bi mẫn, thật sự là viên ngọc quý báu của ta. Vì thế, ta ví nó như một viên bảo châu, người bạn thân thiết nhất của mình.
Nếu bạn đã thực hành và học Pháp nhiều năm, điều này thật đáng quý. Nhưng ngay cả khi bạn chưa học Pháp một cách rộng sâu, thì điều thiết yếu nhất bạn cần có chính là tình yêu thương và lòng bi mẫn. Đó mới là điều cần phải thấm nhập vào dòng tâm thức của bạn. Nếu có được điều đó, thì bạn thực sự đang có Pháp trong tâm, bạn là hành giả chân chính.]
Một dấu hiệu của người thực hành Pháp [chân chính] là thân tướng và hành vi bên ngoài trở nên an hòa và điều phục. Ví dụ, khi họ nói chuyện với người khác, lời nói của họ nhẹ nhàng và từ tốn. Cái gì họ làm cũng rất ôn hòa và dễ chịu, từ cách đi đứng, nói năng hay làm bất kỳ việc gì, tất cả đều biểu lộ sự tĩnh tại và điều phục. Vì vậy, khi người khác nhìn thấy họ, tự nhiên sẽ cảm thấy bị thu hút, cảm thấy ngập tràn cảm hứng. Đó là vì hành vi và cử chỉ của họ rất an hòa, rất dễ chịu. Ví như có những thành viên tăng đoàn, chư vị lạt ma hay các vị Tỳ-kheo có hạnh kiểm ôn hòa và điều phục. Nhưng không chỉ riêng người xuất gia, mà ngay cả các cư sĩ tại gia cũng có thể có hành vi ôn hòa như thế. Ví dụ, trong các hoạt động thường nhật, họ luôn thể hiện sự lịch thiệp, nhã nhặn, nói năng nhẹ nhàng với người khác, biểu hiện một phong thái hòa nhã và đầy tôn trọng. Đó chính là điều mà chúng ta cần có được từ việc tu tập Phật pháp. Thân – khẩu – ý của hành giả phải trở nên an hòa, điều phục. Điều đó sẽ thể hiện ra thành sự lễ độ, kính trọng đối với người khác, sự dịu dàng trong đối nhân xử thế, và trên hết là một động cơ thuần tịnh và chân thành với bao người. Nếu bạn có lòng từ bi, thì chắc chắn bạn sẽ trở nên như vậy. Và dấu hiệu của người có lòng từ bi là hành vi bên ngoài trở nên ôn hòa và điều phục.
Ta lại nói, dấu hiệu của thiền định [tăng tiến] là sự vắng mặt của các phiền não. Chúng ta thực hành Phật pháp qua nhiều phương diện – lắng nghe, suy tư và thiền định. Thiền định (hay thực hành) có nghĩa là thật sự đưa Phật pháp vào trong tâm, thấm nhuần vào đời sống. Thiền định không chỉ là ngồi ngay ngắn, nhắm mắt, nhập định, mà là sự thực hành Pháp trong đời sống thường ngày. Vì thế, tất cả những gì bạn làm trong sinh hoạt hằng ngày đều có thể trở thành pháp tu. Như vậy, hành động sẽ trở nên ôn hòa, điều phục; lời nói âm thanh sẽ trở nên nhẹ nhàng, tĩnh lặng, và tâm ý cũng sẽ trở nên an hòa. Người khác khi tiếp xúc với bạn cũng sẽ cảm nhận được điều đó, tâm thái của bạn sẽ khiến người khác cảm thấy dễ chịu và tin tưởng.
Tất cả những điều ấy đều khởi sinh từ lòng bi mẫn. Khi đã có lòng bi mẫn thì bất cứ điều gì bạn làm cũng đều xuất phát từ mong muốn đem lại lợi ích cho người khác. Tâm bạn sẽ đầy chân thành và điều đó không giới hạn trong một hai người mà là đối với tất cả chúng sinh. Tâm bạn được giải thoát khỏi sự chi phối của các cảm xúc phiền não.
Sau một thời gian dài thực hành Pháp thì tất cả công phu tu tập đó phải dẫn đến kết quả là sự giảm thiểu sân hận, ganh tị, các tư tưởng tiêu cực, và ý muốn làm hại người khác. Tóm lại, nếu các phiền não giảm dần, thì đây chính là dấu hiệu của sự tiến tu, dấu hiệu của thiền định đúng đắn.
Vì vậy, chúng ta cần phải nỗ lực thực hành. Nếu không nỗ lực thì các cảm xúc phiền não vẫn sẽ còn mãi trong tâm. Nỗ lực ở đây còn có nghĩa là biết nhẫn nại, kiên trì, và đi từng bước một. Cũng giống như khi muốn đến một nơi nào đó, bạn phải đi từng bước một. Chỉ bước một bước thôi thì làm sao có thể đến nơi? Phải bước bước đầu tiên, rồi bước thứ hai, thứ ba… cứ thế đi từng bước một. Tương tự như vậy, tình yêu thương và lòng bi mẫn của bạn cũng sẽ lớn dần lên theo từng bước thực hành. Nếu bạn duy trì được chánh niệm thì các phiền não sẽ dần dần giảm thiểu. Với chánh niệm, bạn sẽ nhận ra lỗi lầm của chính mình.
Đôi khi, có thể một cảm xúc phiền não mạnh mẽ bất chợt khởi lên. Có thể bạn phạm một sai lầm, ví dụ như đã nói gì hay cư xử theo cách nào đó khiến người khác bị tổn thương. Khi điều ấy xảy ra, bạn không nên trách móc bản thân quá nặng nề. Sai lầm là điều hoàn toàn tất yếu. Nhưng điều quan trọng là bạn phải nhận ra sai lầm ấy, phải nhìn lại chính mình và thấy rõ rằng: ‘Thật vậy, đó là lỗi của tôi. Trong khoảnh khắc đó, tôi đã nổi giận, và tôi đã nói ra điều khiến người kia tổn thương. Tôi nhận ra điều đó, và từ nay về sau, tôi sẽ cẩn trọng hơn. Tôi sẽ không tái phạm sai lầm đó nữa.’
Chỉ cần trong tâm có sự chuyển hóa nhờ lòng bi mẫn, thì đó chính là điều cốt lõi. Bạn nhận ra lỗi của mình, bạn hối hận và không muốn lập lại lỗi ấy nữa và trong tương lai bạn sẽ hành xử cẩn trọng hơn. Đó chính là điều cần phải có sau nhiều năm thực hành Giáo pháp. Chúng ta thực hành Pháp để chuyển hóa nội tâm. Vì thế, nếu sau tất cả những năm tháng tu hành mà sân hận, ganh tị và các phiền não khác vẫn không giảm đi, thì thật sự thực hành chẳng còn có ý nghĩa. Ví dụ, nếu bạn nhìn vào những người thân trong gia đình; con cái, cha mẹ của mình; và bạn vẫn còn khởi tâm tiêu cực đối với họ, vẫn còn cảm thấy bực bội, giận dữ, đố kỵ, thì điều đó có nghĩa là tâm bạn chưa thật sự chuyển hóa. Nếu mọi người biết bạn đang tu học Phật Pháp nhưng lại thấy bạn cư xử bất thiện, vẫn làm tổn thương người khác, [dễ dàng] nổi giận, nói những lời cay nghiệt v.v. thì họ sẽ nghĩ rằng Phật pháp cũng chẳng có gì hay. Bởi vì nếu bạn đã tu mà vẫn như vậy, thì Phật pháp đối với họ là cũng sẽ là vô nghĩa.
Cho nên, chúng ta không nên như thế. Phải thật sự thấy rõ rằng nền tảng của thực hành Pháp là phát khởi tâm vị tha. Với bất kỳ ai bạn gặp, hãy đều khởi tâm muốn giúp đỡ, muốn đem lại lợi ích cho họ. Nói cách khác, điều ấy phải trở thành một phần trong bản thể của bạn, phải thấm nhuần vào dòng tâm thức của bạn. Chỉ khi ấy, các phiền não mới có thể từ từ suy giảm. Và điều này có nghĩa là: khi tình thương và lòng bi mẫn càng lớn mạnh, thì phiền não càng yếu đi. Cho đến lúc đó, chúng ta vẫn cần phải tiếp tục nỗ lực thực hành.
Về cơ bản, tình yêu và bi mẫn được thực hành theo cách rất tương tự nhau.
Chúng ta khởi đầu với một người nào đó, một người mà các bạn vô cùng yêu quý, một người mà các bạn thật sự quan tâm. Rồi từ đó, hãy nghĩ rằng tất cả chúng sinh cũng đều như vậy. Điều này rất quan trọng: hãy thật sự quán chiếu rằng tất cả chúng sinh đều đã như thế, nếu không thì tâm ta sẽ trở nên vô cùng hạn hẹp. Có thể bạn sẽ khởi tâm bi mẫn đối với những người mà bạn thương mến, những người mà bạn thấy gần gũi hoặc chơi thân với bạn. Nhưng ngoài ra, bạn sẽ khó lòng phát khởi bi mẫn đối với người ai khác. Như thế là chưa đủ. Lòng bi mẫn của chúng ta cần phải mở rộng đến tất cả chúng sinh. Vì vậy, chúng ta cần nhận ra rằng không có một chúng sinh nào mà chưa từng là cha mẹ của ta. Khi họ là cha mẹ ta, họ đã chăm sóc ta với tình thương lớn lao nhất. Tất cả những chúng sinh, ai cũng như nhau, đều mong cầu hạnh phúc. Vì thế, các bạn cần khởi tâm yêu thương và bi mẫn đối với hết thảy chúng sinh.
Bình thường, chúng ta vẫn cầu nguyện như thế này:
“Nguyện cho tất cả chúng sinh có được hạnh phúc và nhân hạnh phúc;
Nguyện cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau và nhân của khổ đau.”
Mỗi khi tụng bài nguyện này, hãy luôn nhớ rằng ta phải khởi phát lòng bi mẫn dành cho tất cả chúng sinh.
Nói đến cụm từ “tất cả chúng sinh”, phải biết rằng “chúng sinh” là vô lượng, không thể nào đếm xuể. Ta nói rằng: “Nơi nào hư không còn, nơi đó chúng sinh còn; nơi nào có chúng sinh, nơi đó có nghiệp và phiền não; chừng nào còn có nghiệp và phiền não thì khổ đau vẫn còn hiện hữu.” Vì thế, tất cả chúng sinh đều đang chịu khổ. Do đó, chắc chắn họ là những đối tượng xứng đáng để ta khởi tâm bi mẫn. Những chúng sinh này họ có muốn khổ như vậy không? Dĩ nhiên là không. Ai cũng muốn thoát khổ, nhưng lại không biết làm sao, bởi họ không hiểu được nguyên nhân của khổ đau là gì.
Trong Nhập Bồ Tát Hạnh có dạy rằng:
“Mặc dầu chúng sinh luôn mong cầu hạnh phúc,
nhưng vì vô minh họ lại phá hoại nhân của hạnh phúc như kẻ thù.
Họ không muốn khổ đau,
nhưng lại say sưa theo đuổi khổ,
bỏ lại hạnh phúc để chạy theo nguyên nhân của khổ.”
Vì không nhận ra rằng nguyên nhân của khổ đau chính là các cảm xúc ô nhiễm nên, mặc dù trong thâm tâm ai cũng mong được hạnh phúc nhưng cuối cùng do vô minh, lầm lạc, che chướng nên mãi không hiểu được đâu là cội nguồn của hạnh phúc. Hoặc giả, họ không thể thực hành các nhân ấy vì không biết phương pháp thực hành.
Lại nói, cũng chính vì mê lầm mà chúng sinh tạo ra biết bao ác nghiệp về thân, khẩu và ý; vốn chính là các nhân của khổ đau. Dẫu vậy, họ vẫn không chịu từ bỏ những hành vi tiêu cực ấy. Có thể do không biết đó là nhân của khổ đau, hoặc biết nhưng không có khả năng từ bỏ, hoặc thậm chí biết mà không muốn từ bỏ. Nói cách khác, bởi đã huân tập quá lâu với những tập khí xấu; họ đã quen với các hành động tiêu cực. Và kết quả là họ cứ tiếp tục luân hồi trong vòng sinh tử hết lần này đến lần khác. Khổ đau luôn luôn hiển lộ – họ không muốn khổ, nhưng dù tìm cách tránh né, họ vẫn luôn rơi vào khổ đau.
Chính vì những chúng sinh như vậy mà ta cần phát khởi lòng bi mẫn.
Vậy ta nuôi dưỡng lòng bi mẫn như thế nào? Chẳng hạn, hãy nghĩ đến một người mà bạn yêu thương vô cùng, một người mà bạn dành tất cả tình yêu; hoặc một người đã từng rất tử tế với bạn như cha mẹ, con cái, hoặc bất kỳ ai mà bạn thương quý. Rồi hãy tưởng tượng rằng có ai đó giết họ, đánh đập họ, cắt xẻ thân thể họ; hoặc họ bị thiêu sống trong lửa; hoặc họ đang chết đói, không có gì để ăn uống; hoặc họ bị bệnh nặng, quằn quại trong đau đớn; hoặc họ đang rét buốt đến tận xương mà không có mảnh áo che thân, và rồi họ chết đi…Nếu bạn nghĩ rằng người đang chịu những nỗi thống khổ ấy là người mà bạn vô cùng thương yêu, thì chắc chắn bạn sẽ không thể nào không khởi lòng bi mẫn. Chắc chắn là như thế. Cho nên, dù ta thường nói rằng “phải phát khởi lòng bi mẫn” nhưng thật ra, lòng bi mẫn không phải là thứ mà bạn gượng ép phải có. Nó tự nhiên sinh khởi. Chúng ta không thể không khởi lòng bi mẫn khi thấy một người mình yêu thương phải chịu đựng đau khổ cực độ như thế.
Tương tự như vậy, hiện nay có vô số chúng sinh đang chịu khổ như những chúng sinh trong các cảnh giới thấp, đang bị thiêu đốt bởi nóng và lạnh; hay các ngạ quỷ đang phải chịu khổ cùng cực; hay các loài súc sinh…tất cả đều đang hứng chịu phiền não khổ đau. Không có một chúng sinh nào trong số đó chưa từng là cha mẹ hay con cái của bạn. Vì vậy, ta cần phát khởi lòng bi mẫn đối với tất cả họ. Chúng ta cần thật sự nỗ lực trong thực hành như thế.
Phần 2: Hướng dẫn thực hành
Chúng ta cần thực hành theo từng giai đoạn, từng bước một; dần dần, từng chút một làm lớn dậy lòng bi mẫn của mình.
Trong nghi quỹ Ngondro phần này nằm ở bài kệ trang 47
“Sự vô minh vì chấp ngã là nhân của mọi thống khổ không thể chịu nổi, mà chúng sinh mẹ hiền, vô lượng như hư không, phải trải qua trong sáu cõi luân hồi – nguyện cho nhân ấy hoàn toàn được loại bỏ, và nguyện cho mọi chúng sinh quan tâm tới nhau bằng tâm bi mẫn vị tha”
Trước đây, trong bốn pháp tu tiên yếu, chúng ta phải tích lũy một số lượng nhất định túc số hoặc thực hành cụ thể. Nhưng đối với tình yêu thương và lòng bi mẫn, thì không có con số nào được đặt ra. Điều quan trọng là ta cần nuôi dưỡng, cần quán chiếu, cần huân tập cho đến khi những phẩm chất này thật sự chuyển hóa tâm ta từ bên trong.
Ở đây nói rằng: “Chúng sinh mẹ hiền vô lượng như hư không” có nghĩa là tất cả đều từng là mẹ của ta – không phải chỉ một vài người, mà là tất cả. Và hiện nay, tất cả những chúng sinh ấy đang phải chịu đựng khổ đau không dứt trong sáu nẻo luân hồi. Vì thế ta phát nguyện: mong sao họ thoát khỏi những khổ đau đó. Đây chính là cốt lõi của việc tu tập lòng bi mẫn.
Tất cả chúng sinh đều đang khổ trong luân hồi, và khổ đau ấy không phải không có nguyên nhân. Nguyên nhân chính là chấp ngã, là cái tâm luôn cho rằng: “Tôi”, “của tôi”. Trong Ba mươi bảy pháp hành của Bồ Tát, có dạy:
“Tất cả khổ đau không trừ một thứ gì, đều khởi từ mong cầu hạnh phúc cho riêng mình.Chư Phật toàn giác sinh khởi từ tâm vị tha.”
Cho nên, bất kể đó là loại khổ đau gì, dù là nỗi thống khổ mạnh mẽ trong ba cõi thấp, hay chỉ là những phiền não nhỏ như cảm thấy mệt mỏi, đau đầu – tất cả những thứ khiến ta không hài lòng đều có nguyên nhân. Nguyên nhân ấy là ác nghiệp, là những hành vi bất thiện. Mà mọi hành vi bất thiện đều khởi sinh từ tâm chấp ngã, từ cái tâm luôn cho rằng: “Tôi là quan trọng nhất”. Chính vì cái “tôi” quan trọng ấy mà chúng ta tạo ra biết bao ác nghiệp. Chúng ta đồng hóa mình với thân xác này, và vì nó, ta tích lũy vô số nghiệp bất thiện. Những nghiệp đó chính là nguyên nhân đưa đến khổ đau, là thứ cần phải đoạn trừ.
Không có ai đẩy bạn xuống địa ngục cả. Chính cái tâm chấp ngã “tôi, tôi” đó, cùng với bao nhiêu nghiệp bất thiện do nó thúc đẩy, mới là thứ kéo bạn xuống. Không có ai cưỡng ép bạn cả: chính bạn đã tự dẫn mình đến đó với những niệm tưởng bám chấp vào cái tôi.
Trong Nhập Trung Quán Luận có dạy rằng: đầu tiên là sự chấp thủ vào bản ngã, vào cái “tôi”; từ đó phát sinh ra chấp thủ vào những thứ “của tôi” như tài sản của tôi, lạc thú của tôi, thân quyến của tôi, v.v. Chính cái “tôi” ấy và mọi sự bám chấp xoay quanh nó đã giữ chặt chúng ta trong bánh xe luân hồi xoay vần mãi mãi.
Vì vậy, chính sự chấp ngã này – tức vô minh – là nguyên nhân khiến họ cứ mãi trôi lăn trong luân hồi. Và với những chúng sinh như vậy, ta cần phát khởi lòng bi mẫn sâu sắc.
Có ba loại bi mẫn:
- Lòng bi mẫn có đối tượng là chúng sinh;
- Lòng bi mẫn có đối tượng là các pháp;
- Lòng bi mẫn vô đối—tức là không còn phân biệt đối tượng.
Trước tiên là loại bi mẫn có đối tượng là chúng sinh. Tức là bạn thấy một chúng sinh đang khổ, bạn biết rõ họ đang khổ. Chẳng hạn, bạn quán chiếu về nỗi khổ của chúng sinh trong ba cõi thấp, hoặc bạn tận mắt thấy ai đó đang đau khổ vì bệnh tật nặng nề, hay có những khuyết tật thân thể và đang phải chịu nhiều đau đớn. Khi bạn trực tiếp thấy điều đó, hoặc khi bạn nghĩ đến điều đó, thì tâm bi mẫn sẽ khởi lên một cách tự nhiên. Đó chính là loại bi mẫn có đối tượng là chúng sinh.
Tiếp đến là lòng bi mẫn có đối tượng là các pháp, nghĩa là bạn hiểu được lý do vì sao có khổ đau. Bạn biết rằng họ khổ là vì nghiệp, vì họ đã tích lũy những nguyên nhân của khổ đau. Cho nên, khi hiểu được điều đó, bạn sẽ khởi lòng bi mẫn với họ. Kể cả khi họ đang làm hại bạn bạn sẽ nghĩ rằng: “Họ đang sai lầm”, và vì vậy bạn không tức giận mà chỉ cảm thấy thương xót cho họ. Đó là loại bi mẫn có trí tuệ quán chiếu rằng các hành vi bất thiện sẽ mang lại quả báo tương ứng.
Cuối cùng là bi mẫn vô đối (không có đối tượng) nghĩa là không có đối tượng riêng biệt nào. Không phải chỉ là một người hay một vài người, mà là tất cả chúng sinh không thiên lệch. Bạn không chỉ cảm thấy bi mẫn đối với những ai tốt với bạn, mà cũng cảm thấy bi mẫn đối với những ai không ưa bạn, hoặc những người bạn không thích. Nếu tâm bạn có phân biệt như vậy, thì đó chưa phải là lòng bi mẫn chân thật.
Lòng bi mẫn đích thực là lòng bi mẫn không thiên vị, không phân biệt giữa thân và sơ, giữa thương và ghét. Bởi vì mục tiêu là chúng ta phải giải thoát khỏi ái luyến và sân hận, và chỉ khi nào lòng bi mẫn của bạn vô phân biệt thì bạn mới có thể giải thoát được khỏi ái luyến và sân hận. Chỉ khi ấy, đó mới là lòng bi mẫn chân chính.
Nhiều bậc đạo sư tâm linh cũng từng nói rằng đôi khi chúng ta dễ nhầm lẫn giữa lòng bi mẫn và ái nhiễm, hay tham luyến. Có lúc, ta tưởng mình đang khởi lòng bi mẫn, nhưng thực ra chỉ là ái luyến hoặc chấp thủ. Đây là điều chúng ta cần hết sức cẩn trọng. Vì thế, cần tu tập để có lòng bi mẫn vô điều kiện, không chỉ hướng về người mà ta có cảm tình quý mến mà phải hướng về tất cả chúng sinh. Chỉ khi ấy, lòng bi mẫn chân chính này mới thật sự có sức mạnh chuyển hóa tâm ta.
Vì vậy, điều quan trọng nhất chính là phát khởi tâm nguyện giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Và đó chính là điều mà chúng ta phải chuyên tâm thực hành.
Trong pháp tu tiên yếu, khi tu tập về tình yêu thương và lòng bi mẫn, chúng ta cần thực sự huân tập để lòng bi mẫn được thấm nhuần vào trong tâm thức. Cách để làm được điều ấy là phải thường xuyên quán chiếu về các nguyên nhân.
Chẳng hạn, bạn hãy tự hỏi:
- Tại sao mình cần nuôi dưỡng lòng bi mẫn?
- Bi mẫn là gì?
- Bi mẫn đối với chúng sinh là gì?
- Bi mẫn đối với các pháp là gì?
- Bi mẫn vô đối là gì?
- Tại sao lòng bi mẫn lại quan trọng đến vậy?
- Lợi ích của việc tu tập lòng bi mẫn là gì?
Hãy quán chiếu những câu hỏi ấy một cách sâu sắc. Chính nhờ nỗ lực quán niệm chân thật như vậy mà bạn có thể nuôi lớn lòng bi mẫn trong tâm.
Phần 3: Hỏi và Đáp
Hỏi: Con thỉnh thầy hãy dạy cho con cách thở cho đúng, kỹ thuật hít thở cho đúng
Đáp: Mỗi sáng khi vừa thức dậy, hãy thực hành bài tập thở [9 lần]. Cách quán tưởng như sau:
- Thở vào năng lượng khí, đưa đến vùng luân xa tim hoặc rốn.
- Giữ khí
- Thở ra tống xuất và tịnh hoá mọi ô nhiễm về thân, các chất độc hại trong các luồng khí và đường kinh mạch dưới dạng khói đen.
Thứ tự hơi thở trong bài tập thở 9 hơi như sau:
Vòng thứ 1: Thở vào bằng lỗ mũi phải, giữ khí, thở ra bằng lỗ mũi trái.
- Hơi thở thứ 1: Thở vào, thở ra dài và mạnh
- Hơi thở thứ 2: Thở vào, thở ra ngắn và mạnh
- Hơi thở thứ 3: Thở vào, thở ra nhẹ nhàng và chậm rãi
Vòng thứ 2: Thở vào bằng lỗ mũi trái, giữ khí, thở ra bằng lỗ mũi phải.
- Lặp lại 3 hơi thở theo cách thức tương tự như ở vòng 1
Vòng thứ 3: Thở vào và thở ra bằng cả hai lỗi mũi.
- Lặp lại 3 hơi thở theo cách thức tương tự như ở vòng 1
Lý tưởng nhất, chúng ta nên thực hành bài tập thở này ngay khi vừa thức dậy, hoặc bất cứ khi nào có thể. Nếu sau đó các bạn có thể vào thời công phu được thì tốt, nếu không thì cũng vẫn nên thực hành bài tập thở này vào buổi sáng vì nó giúp thanh tịnh kinh mạch và khí mạch rất tốt.
Hỏi: Chúng ta thường hay phát nguyện là “Nguyện cho con viên thành Phật quả vì lợi lạc của tất cả chúng sinh” nhưng thực sự thì một đức Phật đã viên thành Phật quả thì có thể thực sự giúp đỡ chúng sinh trong 6 cõi bằng cách nào? Chúng ta có các vị giác ngộ nhưng vẫn còn các chúng sinh trong luân hồi, vì sao lại vậy?
Đáp: Dưới góc nhìn của chúng ta, theo một cách ta có thể nhìn thấy được thì một vị Phật có thể giúp chúng sinh bằng cách nào? Đầu tiên Ngài đã phải khởi phát Bồ Đề Tâm và sau ba a tăng kỳ kiếp tích luỹ công đức và tịnh trừ nghiệp chướng, cuối cùng Ngài đạt thành Phật quả vì lợi lạc của chúng sinh. Sau khi đã đạt giác ngộ, cũng vì lợi lạc cho chúng sinh mà Ngài đã ba lần chuyển Pháp luân. Ngài đã giảng dạy những gì trong ba lần chuyển Pháp luân ấy? Ngài dạy cho ta đâu là cái nhân của hạnh phúc, nếu muốn đạt được hạnh phúc thì phải tạo ra nhân hạnh phúc. Ngài lại dạy cho ta đâu là nhân của khổ đau, nếu không muốn khổ đau ta phải từ bỏ các nhân ấy. Như thế, vì lợi lạc của tất cả mọi chúng sinh mà Ngài đã chỉ bày cho ta con đường hành thiện, chỉ cho ta đâu là những điều nên làm, đâu là những điều nên tránh. Nếu không nghe lời Ngài, không tin và thực hành theo lời Ngài thì Đức Phật chẳng thể gia trì được cho ta. Ta sẽ không thể thoát khỏi đau khổ, nhận được gia trì mà lại không lắng nghe và thực hành theo lời Phật dạy.
Thực tế, đây là điều chúng ta đã được dạy khi nhận giới quy y. Ta quy y để được giải thoát khỏi luân hồi đau khổ, để được bảo vệ chở che khỏi những đau khổ của cuộc đời, nhưng bằng cách nào mới được? Quy y không có nghĩa là Đức Phật sẽ giúp ta tránh đoạ sinh vào ba cõi thấp, hoặc vì đã quy y nên từ nay ta không thể đoạ sinh cõi thấp được nữa. Quy y cũng không có nghĩa là ta sẽ không đau bệnh, hoặc khi đau bệnh thì Đức Phật sẽ chữa khỏi cho ta. Có chướng ngại, khổ đau nào xảy đến với ta thì Đức Phật cũng sẽ không thể đến gia trì và xoá chúng đi được, không thể làm cho chúng ta hết khổ được. Đây không phải là cách “Đức Phật đem lại lợi lạc cho chúng sinh”.
Ngài chỉ cho chúng ta về các nhân của đau khổ. Ngài nói “Con đau khổ, bệnh tật và phiền não sao? Vậy, đây là nguyên nhân của chúng. Nếu không muốn phiền não khổ đau con phải từ bỏ các nhân ấy”. Như vậy, Ngài đã đem đến lợi lạc cho chúng sinh bằng cách chỉ bày con đường [thoát khổ]. Đây mới chính là gia lực thực sự của Ngài. Đức Phật đã nói rằng Ta chẳng thể xua tan đi đau khổ của chúng sinh. Ta cũng chẳng thể trao cho chúng sinh giác ngộ của ta. Ta chỉ có thể chỉ ra cho chúng sinh bản tánh thật sự của các Pháp, ấy là sự vận hành của nghiệp nhân và quả. Ta chỉ có thể chỉ cho chúng sinh bản chất của nghiệp. Thực hành như thế chúng sinh sẽ được giải phóng khỏi luân hồi, sẽ được bảo vệ.” Đây là những gì chúng ta đã được học khi nhận giới quy y. Sau cùng, Ngài lại nói “Chứng ngộ hay không là tuỳ thuộc vào các con.” Như thế Ngài đã nói rằng Ngài chỉ có thể chỉ cho chúng sinh con đường giải thoát, còn có giải thoát được hay không là phụ thuộc vào mỗi chúng ta. Vì thế, nếu muốn đạt được giác ngộ, được giải phóng khỏi luân hồi thì tất cả nằm trọn trong lòng bàn tay ta. Đây là cách Đức Phật đem lại lợi lạc cho mọi chúng sinh.
Lấy ví dụ, con trẻ thì chẳng biết gì, vì thế cha mẹ phải là người chỉ bày đường hay lẽ phải cho chúng. Ví dụ, các bậc cha mẹ sẽ dạy con trẻ không được ăn đồ có độc, vì như thế chúng có thể sẽ chết. Nếu đứa trẻ nghe lời cha mẹ không ăn thuốc độc thì nó sẽ tránh khỏi việc bị ngộ độc mất mạng. Ngược lại, nếu đứa trẻ không nghe lời cha mẹ mà ăn thuốc độc thì sẽ ngộ độc và chết. Một khi đã ăn phải thuốc độc, cha mẹ nó sẽ chẳng thể làm gì để bảo vệ nó được nữa, nó đã nuốt phải thuốc độc rồi. Cũng tương tự, Đức Phật có thể chỉ cho chúng ta con đường, Ngài cũng đã nói “Đây là bất thiện hạnh, phạm ác hạnh thì các con sẽ phải chịu khổ đau.” Nếu các bạn sùng mộ vị Thầy, tôn kính lời Phật dạy thì các bạn sẽ lắng nghe và từ bỏ các ác hạnh bởi vì nếu phạm ác hạnh thì sẽ chịu đau khổ, không phạm ác hạnh thì không phải chịu phiền não khổ đau. Đây mới chính là gia lực chân chính của Đức Phật. Gia lực của Đức Phật không có nghĩa là Ngài sẽ xua tan đi đau khổ của chúng ta, chính Ngài đã nói rằng Ngài không thể xoá đi các ác niệm trong tâm ta. Nếu ta đã tích luỹ nghiệp thì phải chịu quả, đây là bản chất [của luân hồi], đến cả Đức Phật cũng không làm gì khác được. Ai gieo gió thì người đó phải gặt bão. Như thế, những giáo huấn về nghiệp nhân quả mà Ngài đã trao mới thật là những phẩm tánh đặc biệt nhất trong Phật Giáo chứ không phải là thần thông của Ngài. Gia lực mà Ngài trao cho ta là trí tuệ trực nhận được chân tánh của các Pháp, chứ chẳng phải là năng lực nhiệm màu nào để đưa ta đến Tịnh Độ hay xoá bỏ mọi ác nghiệp lỗi lầm của ta. Ngài đã chỉ cho ta con đường về Tịnh Độ, muốn đi đến cõi ấy hay không là tuỳ thuộc vào ta. Cũng như thế, Ngài đã chỉ cho ta con đường đoạ vào địa ngục, nhưng Ngài chẳng thể ngăn ta bước chân vào cõi ấy. Như thế, [giác ngộ hay không] hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta.
Hỏi: Có thể nào làm cho cõi luân hồi không còn địa ngục không?
Đáp: Thật ra địa ngục chính là [một cảnh giới của] luân hồi. Vậy, một cách đặt câu hỏi khác đi là “Con có thể nào diệt trừ được sân hận trong tâm không?” Nếu có thể làm được như vậy thì tự thân con sẽ không còn phải trải nghiệm cõi địa ngục. Nếu không thì con sẽ không thể diệt trừ được cõi địa ngục vì sân hận là cái nhân của địa ngục. Ai diệt trừ được sân hận cũng sẽ diệt trừ được địa ngục. Như thế, có những người có thể sẽ diệt trừ được cõi địa ngục, có những người thì không. Vì vậy, một câu trả lời rạch ròi cho câu hỏi này là không có.
Hỏi: Trong một vài bài nguyện có nhắc đến khi “luân hồi ngừng dứt”. Vậy con muốn hỏi là luân hồi có thể nào thực sự ngừng dứt hay không?
Đáp: Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi vừa rồi. Điều này tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân. Ai đã thực hành thiện hạnh, từ bỏ ác hạnh và chứng ngộ bản tâm thì đối với người ấy luân hồi thật sự đã ngừng dứt. Ai chưa chứng ngộ bản tâm vẫn sẽ tiếp tục trôi lăn trong sáu cõi luân hồi. Đối với người này, luân hồi có thể là vô tận.

